Chúng tôi nghe rõ từng lời. Căn cứ theo giọng nói thì có thể đoán là Vê-
li-ran-đơ đang nói chuyện với một cô bé trạc tuổi chúng tôi.
- Sao? – Vê-li-ran-đơ hỏi. - Ông ấy gặp chuyện gì vậy?
- Ông ấy mất tích từ ngày đầu chiến tranh. Người nhà đáp lại lão.
- Khủng khiếp thật! - lão Vê-li-ran-đơ nói. - Hoàn toàn khủng khiếp!
Chà, tôi xin lỗi vậy. Tôi vốn là bạn học với ngài Ca-rơ-vét, hồi ấy chúng tôi
là những người bạn tốt của nhau. Còn chị, hẳn là…
- Tôi là người thuê nhà. Tôi không biết gì về ngài Ca-rơ-vét cả.
- Nhưng chẳng lẽ vợ ông ta cũng không có nhà?
- Bà ta sẽ trở về nhà không sớm hơn một giờ nữa.
- Chà, thế đấy. Tôi xin lỗi. Có thể tôi sẽ đến vào một buổi chiều tối nào
đó muộn hơn nữa.
Có tiếng cánh cửa đóng sập lại và tiếng chân bước xuống cầu thang.
Trống ngực tôi đập điên loạn. Chạy ra khỏi cửa thì muộn rồi. Vê-li-ran-
đơ sẽ để ý thấy ngay. Nhưng làm sao bây giờ, chẳng lẽ đóng cửa, đi thẳng
về phía lão như là chúng tôi vừa ở ngoài phố vào. Việc đó chỉ chấp nhận
được trong trường hợp Vê-li-ran-đơ không có đèn pin. Mà chúng tôi lại biết
chắc là lão có đèn pin. Lão sẽ nhận ra tôi ngay.
Có tiếng bước chân đến gần: Đấy, đấy Vê-li-ran-đơ đang xuống cầu
thang. Và lúc đó sẽ?…
Đột nhiên tôi thấy Ô-lép kéo tay áo tôi. Tôi khẽ nhích lại gần cậu ta. Cậu
ta vẫn kéo tôi. Đi đâu?
Ô-lép sờ soạng chui vào gầm cầu thang. Chúng tôi khẽ khàng bước
xuống mấy bậc. Cuối cùng đã kịp. Từ trong chỗ ẩn náu chúng tôi nhìn thấy
ánh đèn pin màu xanh lướt đi. Thế rồi cánh cửa ra vào đóng lại.
Chúng tôi đứng im thêm ít phút, rồi Ô-lép khẽ nói:
- Lão đi rồi.
Chúng tôi ra khỏi chỗ nấp và đánh diêm. Trên tường có treo một dãy hộp
thư riêng. Trên một chiếc hộp có gắn tấm biển đề: “Ca-rơ-vét”. Chúng tôi