hoạch ban đầu là ám sát ngài, thưa Sayedi, và tôi bảo đảm rằng hắn ta, cũng
như những kẻ trước đây, đã thất bại.
Viên Đại tướng đã không có được câu trả lời đã tập dượt kỹ từ trước cho
câu hỏi tiếp theo của Tổng thống, và ông ta nhẹ nhõm khi viên Biện lý
Chính phủ can thiệp.
— Có lẽ chúng ta có thể biến đổi toàn bộ vụ này thành lợi thế cho chúng
ta, thưa Sayedi.
— Làm sao có thể được, – vị Tổng thống la lớn, – khi hai tên trong bọn
đã tẩu thoát cùng với bản Tuyên ngôn và bỏ lại cho chúng ta một bản sao vô
dụng mà bất cứ ai có thể đánh vần từ “British” cũng sẽ nhận thấy ngay là
một bản giả? Không, chính tôi đã bị biến thành một kho trò cười cho cả thế
giới, chứ không phải Clinton.
Mọi cặp mắt giờ đây đều đổ dồn về phía viên Biện lý.
— Không nhất thiết phải như thế, thưa Tổng thống. Tôi tin chắc rằng khi
người Mỹ trông thấy báu vật yêu quý của họ, họ sẽ không vội vã trưng bày
lại ở viện Bảo tàng Lịch sử Quốc gia.
Lần này Tổng thống không ngắt lời, vì thế viên Biện lý nói tiếp:
— Thưa Tổng thống. Chúng ta cũng biết rằng, do thiên tài của ngài, tấm
giấy da hiện trưng bày ở Washington cho công chúng Mỹ không hề hoài
nghi là, theo đúng lời ngài vừa nói, “một bản sao vô dụng mà bất cứ một ai
có thể đánh vần từ “British” cũng sẽ nhận thấy ngay là một bản giả”.
Sắc mặt của Tổng thống lúc này chợt có vẻ tập trung.
— Thưa Sayedi, có lẽ đã đến lúc thông báo cho các hãng thông tấn trên
thế giới về chiến thắng của ngài.
— Chiến thắng của tôi? – Tổng thống hỏi lại với vẻ không tin.
— Thưa Sayedi. Chiến thắng của ngài, chưa kể tấm lòng độ lượng của
ngài. Xét cho cùng, chính ngài đã ra lệnh trao bản Tuyên ngôn tả tơi đó cho
giáo sư Bradley sau khi tên gangster Cavalli đã cố tìm cách bán cho ngài.