Tổ biết Huệ Năng đã ngộ bản tánh, nên nói với Huệ Năng rằng: Chẳng nhận
được bổn tâm, học pháp vô ích, nếu nhận được bổn tâm, thấy được bổn
tánh, tức gọi là Trượng Phu, Thiên Nhơn Sư, Phật. Nửa đêm thọ pháp chẳng
ai biết, Tổ bèn truyền pháp đốn giáo và y bát nói rằng: Ngươi là Tổ thứ sáu,
khéo tự hộ niệm, độ khắp hữu tình, phổ biến lưu truyền cho đời sau, đừng
để đoạn dứt. Nghe ta nói kệ đây:
Hữu tình lai hạ chủng,
Nhơn địa quả hườn sanh,
Vô tình diệc vô chủng,
Vô tánh diệc vô sanh.
Dịch nghĩa:
Hữu tình được gieo giống,
Nhơn gieo quả ắt sanh,
Vô tình thì vô chủng,
Vô tánh cũng vô sanh.
LƯỢC GIẢI:
Sinh vật có hai loại: hữu tình là động vật, vô tình là thực vật. Hữu tình mới
được gieo giống Phật, vô tình thì không; có giống là nhơn, ắt sẽ sanh quả.
Nhơn địa là hữu tình, quả địa là Phật. Vô tình chẳng phải nhơn địa của Phật
nên chẳng phải là giống (vô chủng). Tất cả pháp vốn chẳng có tự tánh, nên
nói vô tánh. Vậy thì hữu tình và vô tình, Phật và chúng sanh đều chẳng có
tự tánh, cũng là pháp vô sanh vậy. Nên nói: Vô tánh diệc vô sanh. Vì đây là
kệ truyền pháp, kệ truyền pháp chẳng được lọt vào tứ cú.