Thứ hai định hương, chính là nhìn thấy tất cả cảnh giới thiện ác mà trong
tâm không dao động, đó là định hương.
Thứ ba trí huệ hương, tức là tự mình không làm chướng ngại mình, không
nên tự mình làm khó khăn cho mình, cần phải thường dùng trí huệ phá vô
minh, quán chiếu tự tánh, các việc ác không làm. Cần phải làm các điều
thiện, mà tâm không chấp trước. Giống như Lương Võ Đế hỏi Tổ sư Đạt
Ma: "Trẫm tạo tự, độ Tăng, bố thí cúng dường có công đức gì?" đây chính
là có chỗ chấp trước, nhà vua chấp vào công đức đã làm. Nếu quý vị làm
việc tốt, thì khi làm xong nên quên nó đi, không nên nói: "Tôi bố thí năm
trăm đồng, một ngàn đồng…" Cảm thấy công đức mình rất lớn, lớn còn hơn
phước đức của chư thiên nữa, dường như đã đến cõi Trời Đao Lợi. Nếu quý
vị có những tư tưởng như thế thì không có trí huệ, giống như Lương Võ Đế
vậy. Đối với Cha Mẹ, Sư Trưởng, bậc trên mình, cần phải cung kính, đối
với người dưới phải từ bi, thương xót cứu tế giúp đỡ cô nhi, quả phụ v.v..
Đó chính là trí huệ hương.
*
Bốn là Giải thoát hương, nghĩa là tâm không đeo níu vào một cảnh vật
nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc dữ, thông thả suốt
thông (tự tại vô ngại). Ấy gọi là Giải thoát hương.
Năm là Giải thoát tri kiến hương, nghĩa là tâm mình tuy đã không đeo
níu vào một cảnh vật nào, mình chẳng nghĩ điều lành, không tưởng việc
dữ, nhưng chẳng nên "trầm không thủ tịch." Phải học rộng nghe
nhiều, phải biết Bổn tâm mình, phải rõ thông đạo lý của chư Phật, phải
xen lẫn trong thế gian mà cứu nhơn lợi vật (hòa quang tiếp vật), không
phải nhơn ngã, mà thẳng đến Bồ đề – cái Chơn tánh không thay đổi.
Ấy gọi là Giải thoát tri kiến hương.
Chư Thiện tri thức! Chơn hương nầy, mỗi phần tự có cái chất xông
thơm ở bên trong, đừng tìm kiếm bên ngoài.