Ngày 3 tháng 9 năm ấy, vua ban chiếu khen ngợi rằng: Thiền Sư cáo bệnh
khước từ, đã vì Trẫm tu hành, làm phước điền cho chúng sanh. Sư như Ngài
Duy Ma Cật, cáo bệnh ở thành Tỳ Da để xiển dương đại thừa, truyền Phật
tâm ấn, thuyết pháp bất nhị. Tiết Giản truyền đạt lại tri kiến Như Lai của Sư
chỉ dạy, cũng là do Trẫm tích tụ phước đức, kiếp trước đã gieo trồng thiện
căn, nên được gặp Sư xuất hiện cùng đời, đốn ngộ pháp tối thượng thừa,
cảm đội ơn Sư chẳng thể nào quên. Nay dâng chiếc Cà sa và bình bát thủy
tinh, sai quan thứ sử Thiều Châu tu sửa lại chùa chiền, sắc phong cho nơi ở
cũ của Sư (ở Tân Châu) là Quốc Ân Tự.
---o0o---
Phẩm Phó Chúc Thứ Mười
Một hôm Sư gọi các đệ tử như Pháp Hải, Chí Thành, Pháp Đạt, Thần Hội,
Trí Thường, Trí Thông, Chí Triệt, Chí Đạo, Pháp Trân, Pháp Như nói: Các
ngươi chẳng như người khác, sau khi ta viên tịch, mỗi người làm Thầy một
nơi. Nay ta dạy các ngươi cách thuyết pháp chẳng đánh mất bản tông.
Trước tiên phải y theo pháp môn TAM KHOA, dùng ba mươi sáu pháp đối,
ra vào (khai thị bằng lời nói hay cử chỉ) thường lià nhị biên, thuyết tất cả
pháp chẳng lià tự tánh. Thí như có người hỏi pháp, ý nghĩa lời nói song
song, đến và đi làm nhân với nhau, đều dùng pháp đối. Nếu không có đối
đãi thì ba pháp nhị biên và trung đạo đều dứt, chẳng còn chỗ để nương tựa.
Pháp môn Tam Khoa là gì? Là ẤM, NHẬP, GIỚI: ẤM là ngũ ấm; gồm sắc,
thọ, tưởng, hành, thức. NHẬP có mười hai: bên ngoài lục trần, gồm sắc,
thanh, hương, vị, xúc, pháp, bên trong lục căn, gồm nhãn, nhĩ, tỷ, thiệt,
thân, ý. GIỚI có mười tám: gồm lục căn, lục trần, lục thức. Tự tánh bao
hàm vạn pháp, gọi là Hàm Tạng Thức. Nếu khởi niệm suy lường tức là
chuyển thức, khiến sanh lục thức, ra cửa lục căn, tiếp xúc lục trần. Như vậy
mười tám giới đều từ tự tánh khởi dụng, tự tánh nếu tà thì khởi mười tám tà,
tự tánh nếu chánh thì khởi mười tám chánh, niệm ác dụng tức chúng sanh
dụng, niệm thiện dụng tức Phật dụng. Dụng bằng cách nào? Là do tự tánh