hầm.” Gương mặt anh ta trở nên nghiêm trang. “Nào, tôi có thể giúp đỡ được
gì?”
Sachs nói, “Tôi có danh sách những người ở Algonquin có thể đã đứng
đằng sau vụ tấn công sáng hôm nay.”
“Người nào đó ở đây à?” Sommers tỏ ra hoang mang.
“Có vẻ vậy. Hay ít nhất kẻ đó cũng hợp tác với thủ phạm. Hiện tại, kẻ đó
có lẽ là đàn ông, tuy hắn có thể hợp tác với một phụ nữ. Hắn hoặc ả ta tiếp
cận được mật khẩu máy tính, cho phép truy cập vào phần mềm điều khiển
lưới điện. Hắn đã liên tục đánh sập các trạm điện để dòng điện chỉ còn chạy
qua trạm trên phố Năm mươi bảy. Và hắn đã cài đặt lại các aptomat, khiến
chúng chịu tải cao hơn mức bình thường.”
“Vậy là vụ việc diễn ra theo cách ấy.” Gương mặt Sommers thể hiện nỗi lo
lắng. “Các máy tính. Tôi đã băn khoăn mà. Tôi không biết những tình tiết
đó.”
“Một số sẽ có chứng cứ ngoại phạm, chúng tôi chịu trách nhiệm kiểm tra
vấn đề này. Nhưng tôi cần anh cho ý kiến xem ai có khả năng chuyển hướng
dòng điện và tạo hồ quang điện.”
Sommers có vẻ thích thú. “Tôi hãnh diện quá. Không ngờ rằng Andi thậm
chí biết nhiều về những gì diễn ra dưới này.” Rồi vẻ trẻ con biến mất, thay thế
bằng nụ cười giễu cợt. “Liệu tôi có phải đối tượng tình nghi không?”
Sachs đã đọc được tên của anh ta khi Jessen vừa nhắc đến nó. Cô nhìn
thẳng vào mắt anh ta. “Anh có trong danh sách.”
“Hừm. Cô chắc chắn rằng cô muốn tin tưởng tôi?”
“Anh đã tham gia một cuộc đàm thoại hội nghị từ mười rưỡi cho tới gần
giữa trưa hôm nay, khi vụ tấn công xảy ra. Anh vắng mặt tại thành phố trong
khoảng thời gian thủ phạm có lẽ đã đánh cắp mật khẩu. Dữ liệu chìa khóa cho
thấy anh không đăng nhập vào phòng cất các tài liệu bí mật bất cứ lúc nào
khác.”
Sommers nhướn một bên lông mày.
Sachs đập đập vào chiếc BlackBerry. “Đấy là những gì tôi trao đổi qua tin
nhắn trên đường đi đến đây. Tôi đã đề nghị người ở Sở Cảnh sát New York
kiểm tra về anh. Vì thế, anh trong sạch.”