“Sachs, gì kia? Anh không nhìn thấy rõ. Cái hộp kia. Cái hộp to ấy. Nhìn
sang bên phải đi… Đúng rồi, đấy. Cái gì đấy?”
À, rốt cuộc thì đây.
“Ắc-quy, Rhyme. Ắc-quy dự phòng.”
“Nó có điện không?”
“Họ bảo có. Nhưng em không…”
Sachs lội lại gần hơn và nhìn xuống. Đồng hồ trên ắc-quy cho thấy đúng là
nó có điện. Thực tế, đối với Sachs, trông nó có vẻ đang quá tải. Kim đồng hồ
vượt mức một trăm phần trăm. Rồi cô nhớ một điều khác mà người của
Algonquin đã nói: yên tâm, nó đã được bọc mũ cách điện.
Trừ phi nó không được bọc. Sachs biết mũ cách điện ắc-quy hình dạng ra
sao, và cái ắc-quy này chẳng có mũ cách điện nào cả. Hai cực kim loại, nối
với hai sợi cáp dày, bị lộ ra.
“Nước đang dâng lên. Vài phút nữa sẽ lên đến các cực.”
“Liệu điện có đủ để tạo ra một vụ nổ hồ quang?”
“Em không biết, Rhyme.”
“Phải đủ.” Anh thì thầm. “Hắn sẽ sử dụng một vụ nổ hồ quang để phá hủy
cái gì đó dẫn chúng ta tới với hắn. Cái gì đó hắn không thể đem đi hoặc
không thể phá hủy khi hắn có mặt tại đó. Em có thể khóa nước lại không?”
Sachs nhìn lướt xung quanh. “Em không trông thấy cái vòi nào… Đợi một
phút.”
Sachs tiếp tục xem xét tầng hầm. “Dù sao, em cũng không trông thấy thứ
gì hắn muốn phá hủy.” Nhưng rồi cô đã phát hiện ra: Ngay đằng sau ắc-quy,
cách nền khoảng một trăm hai mươi centimet, có một cửa kiểm soát. Nó
không lớn, hình vuông, mỗi cạnh khoảng bốn mươi lăm centimet.
“Đấy, Rhyme. Đấy là lối hắn đột nhập vào trạm điện.”
“Phía bên kia ắt phải là một cái cống hoặc một đường hầm đặt ống kỹ
thuật. Nhưng để đấy đã. Pulaski có thể lần đến được từ ngoài phố. Cứ rời
khỏi đấy đã.”
“Không, Rhyme, hãy nhìn nó, nó thực sự rất hẹp. Hắn ắt phải trườn qua.
Nó chắc chắn có lưu giữ một số dấu vết hữu ích, chắc chắn có. Sợi vải, tóc,
có thể là ADN. Nếu không tại sao hắn muốn phá hủy nó?”