đoàn drone phục vụ dưới quyền chỉ huy của một đơn vị tác chiến không quân
đặc biệt tân lập.
Mặc dù Đề Án Lựa Chọn được sự ủng hộ ở cấp cao nhất, chương trình này
thật ra không được hoan nghênh tại mọi nơi. Mỉa mai thay, chống đối dữ dội
nhất lại đến từ Chuẩn Đô Đốc John H. Towers, khi ấy đã thay thế Đô đốc
King trong chức vụ chỉ huy Phòng Phi Hành. Towers kiên quyết rằng hao tốn
tài nguyên quý báu vào một vũ khí chưa qua thử thách là một quyết định kém
khôn ngoan. Sự chống đối của ông càng có vẻ mỉa mai khi xét lại bao khó
khăn chính ông đã từng gặp phải vào các năm 1920-1930, khi ông cố gắng
tìm kiếm sự ủng hộ cho ngành không quân của Hải quân, trước sự chống đối
của những cấp lãnh đạo đã công khai hoài nghi sự hữu dụng của tàu sân bay
và máy bay trong một thế giới được thống trị bởi tuần dương hạm và thiết
giáp hạm.
Fahrney quả thật tin tưởng vào khái niệm drone tấn công, nhưng ông cũng
nhận rõ cần phải tạo càng ít cơ hội cho những kẻ chống đối chương trình này
càng tốt. Ông quyết định rằng chiếc máy bay phóng ngư lôi không người lái
sẽ được sản xuất bằng số lượng tối thiểu vật tư khan hiếm. Do đó, thế hệ máy
bay phóng ngư lôi không người lái đầu tiên, được mệnh danh là TDN-1, được
chế tạo gần như hoàn toàn bằng gỗ.
Với đôi cánh lắp cao trên thân và hai động cơ nhỏ, chiếc TDN-1 có thể
mang theo một quả ngư lôi hay một quả bom 900 kg dưới bụng, ở tốc độ 280
km/g. Chiếc máy bay rất nhẹ, rẻ tiền và chỉ dùng số lượng vật tư quý hiếm tối
thiểu. Tiếc rằng cách thiết kế của chiếc TDN không tiện cho sản xuất quy mô
lớn. Chỉ 114 chiếc được sản xuất, hầu như tất cả đều được dùng để thử
nghiệm hay được dùng như bia ngắm bay. Không một chiếc TDN-1 nào được
dùng trong thực chiến.
Sự nhiệt tình với khái niệm drone tấn công bắt đầu xuống dốc, một phần
do sự bài xích không ngừng của đô đốc Towers và những người phản đối
khác. Đại tá Smith và trung tá Fahrney vẫn không nản chí. Nhóm Đề Án Lựa
Chọn lập tức tiến hành sản xuất những chiếc TDR-1, thế hệ drone tấn công
thứ nhì được thiết kế thích hợp với sản xuất hằng loạt hơn.
Tháng 5 năm 1944, sau khi được đại tá Smith và trung tá Fahrney vận