Tên chính thức của nó là Ngư Lôi Bay Kettering, nhưng người ta bắt đầu
gọi nó ngay từ đầu là Con Bọ Kettering, có lẽ vì hình dáng giống như con
chuồn chuồn của nó.
Ông Kettering lập ra từng nhóm kỹ sư độc lập để nghiên cứu các phần
khác nhau của dự án. Một trong các nhóm này chế tạo một thiết bị phóng
máy bay rẻ tiền có thể chở đi dễ dàng, gồm một cái giàn bốn bánh chạy trên
hai đường ray.
Mặc dù ông dự định phát minh một cái máy lái tự động rẻ hơn và đơn giản
hơn cái máy của ông Sperry đã từng thử nghiệm trên chiếc N-9, ông
Kettering không thành công chế tạo được một cái máy nào có thể hoạt động
được. Cuối cùng, ông đành nhờ ông Elmer Sperry trợ giúp. Mặc dù hai người
đang cạnh tranh, ông Sperry vẫn đồng ý giúp chế tạo máy lái tự động.
Cuối cùng, sau khi mọi khó khăn kỹ thuật sơ khởi đã được giải quyết, Con
Bọ Kettering đã sẵn sàng được thử nghiệm vào tháng 9 năm 1918. Sau nhiều
cuộc thử nghiệm sơ khởi dưới đất, chuyến bay thử đầu tiên được tiến hành
vào ngày 2 tháng 10.
Chuyến bay bắt đầu bằng một màn cất cánh trơn tru, nhưng sau đó thì
không ổn. Thay vì quẹo sang hướng đã được chỉ định và bay thẳng lại, Con
Bọ tiếp tục bay thẳng lên không cho đến khi nó chết máy và đâm đầu xuống
đất.
Chiếc Ngư Lôi Bay Kettering có một màn khởi đầu không tốt đẹp, nhưng
một số chuyến bay thử nghiệm sau thì thành công hơn. Lục quân cũng hài
lòng đủ để đặt mua 100 chiếc mẫu, nhưng chỉ mới khoảng 45 chiếc được sản
xuất khi Hòa Ước được ký kết chấm dứt Thế Chiến I.
Thấy rằng không có nhu cầu cấp thiết gì với kỹ thuật này, mà thật ra cũng
không có bao nhiêu ấn tượng tốt với thành quả đạt được đến thời điểm ấy,
chính phủ Liên Bang quyết định nhập chung cả hai dự án ngư lôi bay của Hải
quân và Lục quân. Thử nghiệm chung cho thấy phát minh của ông Sperry trội
hơn, nên Con Bọ Kettering bị bỏ rơi.
Quân đội Hoa Kỳ tiếp tục thí nghiệm chút ít trong hai năm kế tiếp, trước
khi hoàn toàn hủy bỏ dự án vào năm 1920.
Cuộc Chiến Để Chấm Dứt Mọi Chiến Tranh (tên thường gọi Thế Chiến I