tế, quân sự và không quá bạc nhược về tư tưởng. Chỉ sau vài lần quân lính
triều đình chính thức chạm trán với quân Pháp, thì vua quan nhà Nguyễn đa
số đã quyết định nghiêng về lý kiến chủ hòa. Sử sách hậu thế đã tốn không
biết bao nhiêu giấy mực để lên án sự bạc nhược của triều đình Huế, một
chính quyền vốn từ lâu đã rất lạc hậu, trì trệ. Thậm chí, trong hiệp ước Hòa
bình và Hữu nghị mà Tự Đức ký với Pháp ngày 5.6.1862, ngoài việc
nhường 3 tỉnh Nam Kỳ và bồi thường chiến phí cho Pháp trong 10 năm,
mỗi năm 288 nghìn lượng bạc thì nhà Nguyễn phải truy lùng, bắt giữ vào
giao nộp cho quân Pháp tất cả những “phiến quân” chống lại lực lượng của
Pháp trên đất Việt. Thực hiện hòa ước này, triều Nguyễn đã cấm việc chiêu
mộ binh sĩ, triệu hồi các tướng lĩnh đang nắm binh quyền trong cuộc kháng
chiến chống Pháp. Điều đó đã gây một cú sốc cho toàn dân chúng, như giội
một gáo nước lạnh vào ngọn lửa căm hờn hừng hực cháy trong tim mỗi
người dân Việt.
Và, một lần nữa, người Pháp thấy được sức mạnh tinh thần yêu nước của
dân tộc Việt Nam: dù triều đình ráo riết đàn áp những cuộc khởi nghĩa thì
khắp nơi nhân dân nổi dậy, đi theo các nghĩa đảng chống Pháp. Nhiều tướng
lĩnh đã bất phục tùng chiếu chỉ, quyết bám sơn địa, cùng sống chết với nhân
dân. Họ chiến đấu tới hơi thở cuối cùng chứ không chịu quy hàng.
Trong khi đó, tình hình đất nước ngập chìm trong những bi kịch đến từ giặc
ngoại xâm và cả những chính sách bóc lột của chính quyền cũ. Vừa đàn áp
các phong trào yêu nước và vừa để có tiền trả nợ cho kẻ thù, triều Nguyễn
chỉ còn cách xiết chặt gọng kìm bóc lột đối với nhân dân. Những chính sách
thuế khóa mới ban ra vô cùng bất công, hà khắc, cốt để “tận thu” tiền của
trong dân.
- Đầu tiên là tăng thuế ruộng đất: liên tục điều chỉnh tăng thuế ruộng để tận
thu, có thời điểm thuế ruộng đất tăng gấp 3 lần.
- Cho phép người dân bỏ tiền ra mua phẩm hàm và để giảm tội.