LÝ THUYẾT TỔNG QUÁT VỀ VIỆC LÀM, LÃI SUẤT VÀ TIỀN TỆ - Trang 150

được định nghĩa trên đây. Mặt khác, nếu ΣQ

r

d

r

thấp hơn giá cung, sẽ không có sự đầu tư hiện tại vào tài sản vốn

đang được nói đến.

Do đó, sự khuyến khích đầu tư một phần tuỳ thuộc vào đường cầu về đầu tư và một phần vào lãi suất. Chỉ

đến phần kết luận của quyển IV mới có thể xác định được một quan điểm tổng hợp về những nhân tố quyết định
tốc độ đầu tư trong bối cảnh phức tạp của vấn đề. Tuy nhiên, tôi đề nghị độc giả ghi nhận ngay một điều là cả sự
hiểu biết về lợi tức triển vọng của tài sản vốn cũng như sự hiểu biết về hiệu suất biên của tài sản vốn đều không
thể giúp chúng ta suy ra lãi suất hay gái trị hiện nay của tài sản vốn. Chúng ta phải xác định lãi suất từ một nguồn
nào khác, và chỉ khi đó chúng ta mới có thể đánh giá được tài sản vốn bằng cách “tư bản hoá” (chuyển thành vốn)
lợi tức triển vọng của nó.

II

Vậy định nghĩa trên đây về hiệu suất biên của vốn có mối quan hệ như thế nào với cách sử dụng thông

thường? Năng suất, lợi tức, hiệu suất hay độ thoả dụng biên của tiền vốn (the marginal productivity yield of
efficiency or utility of capital
) là những thuật ngữ quen thuộc mà chúng ta thường vẫn dùng. Nhưng thật không dễ
dàng tìm thấy trong các tài liệu về kinh tế học một cách trình bày rõ ràng về những điều mà các nhà kinh tế học
thường hiểu và giải thích bằng các thuật ngữ đó.

Ít nhất có ba ý niệm mơ hồ cần phải làm sáng tỏ. Trước hết là ý niệm mơ hồ ở chỗ liệu chúng ta có quan tâm

đến việc gia tăng sản phẩm vật chất trên mỗi đơn vị thời gian do việc sử dụng thêm một đơn vị vật chất về tiền
vốn, hoặc quan tâm đến gia tăng thêm giá trị do việc sử dụng thêm một đơn vị giá trị về tiền vốn. Trong trường
hợp đầu có những khó khăn về định nghĩa đơn vị vật chất của tiền vốn mà, theo tôi nghĩ, khó giải quyết mà thực ra
cũng chẳng cần thiết. Tất nhiên, chúng ta có thể khẳng định rằng 10 lao động sẽ trồng thêm được nhiều lúa mì hơn
trên một diện tích đất đai nào đó nếu họ có khả năng sử dụng thêm máy móc, nhưng tôi không biết dùng phương
pháp nào để diễn tả điều đó bằng một tỷ lệ số học dễ hiểu nếu không đưa ra những giá trị bằng con số. Tuy nhiên,
nhiều cuộc tranh luận về chủ đề này hình như chỉ liên quan chủ yếu đến năng suất vật chất của tiền vốn hiểu theo
một ý nghĩa nào đó, mặc dù các tác giả không thể làm rõ được ý kiến của họ.

Điều mơ hồ thứ hai là phải chăng hiệu suất biên của tiền vốn là một đại lượng tuyệt đối hay một tỷ lệ nào đó.

Bối cảnh trong đó thuật ngữ này được sử dụng và thói quen xem hiệu suất biên có cùng tính chất như lãi suất hình
như đòi hỏi hiệu suất phải là một tỷ lệ. Tuy vậy, thường không rõ là hai số hạng của tỷ lệ phải như thế nào.

Sau cùng, cần phải có một sự phân biệt rõ ràng mà nếu thiếu thì sẽ gây ra sự lẫn lộn và hiểu lầm giữa một bên

là mức gia tăng thêm về giá trị thu được qua việc sử dụng thêm một số lượng tiền vốn trong tình trạng hiện tại
bên khác là hàng loạt các gia lượng có khả năng thu được trong suốt thời kỳ sử dụng số tài sản vốn thêm đó, nghĩa
là cần phân biệt giữa Q

1

và toàn bộ chuỗi Q

1

, Q

2

… Q

r

… Điều này bao hàm toàn bộ vấn đề về vị trí của dự kiến

trong lý thuyết kinh tế. Hầu hết các cuộc tranh luận về hiệu suất biên của vốn hình như chỉ lưu ý đến Q

1

và không

xét đến các cấu phần khác. Tuy vậy, điều này không thể được coi là chính đáng trừ trong trường hợp lý thuyết tĩnh
trong đó tất cả các Q đều bằng nhau. Lý thuyết thông thường về phân phối, mà theo đó người ta giả định rằng tiền
vốn hiện đang đem lại một số tiền lời bằng năng suất biên của nó (theo một nghĩa nào đó), chỉ có giá trị trong một
nền kinh tế tĩnh mà thôi. Tổng số lợi tức hiện tại của tiền vốn không có mối liên hệ trực tiếp với hiệu quả biên của
nó. Trong khi đó số lợi tức hiện tại ở cận biên của sản xuất (nghĩa là số lợi tức mang lại cho tiền vốn nằm trong giá
cung của sản phẩm) là chi phí sử dụng biên của nó mà chính chi phí sử dụng biên này cũng không có mối liên hệ
chặt chẽ với hiệu suất biên.

Do đó, như tôi đã nói ở trên, hiện rất thiếu sự giải thích rõ ràng về vấn đề này. Nhưng tôi tin rằng định nghĩa

mà tôi đã đưa ra ở trên rất gần với quan điểm của Marshall về thuật ngữ này. Nhóm từ mà Marshall dùng để giải
thích thuật ngữ này là: Hiệu suất ròng biên (marginal net efficiency) của một yếu tố sản xuất hay, nói một cách
khác, là mức thoả dụng biên của tiền vốn (the marginal utility of capital). Dưới đây là tóm lược một đoạn rõ ràng

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.