LÝ THUYẾT TỔNG QUÁT VỀ VIỆC LÀM, LÃI SUẤT VÀ TIỀN TỆ - Trang 264

Từ đó suy ra rằng giả thiết mà cho tới nay chúng ta đã dựa vào đó, tức là giả thiết rằng những biếng động về

lượng việc làm chỉ phụ thuộc vào những biến động về tổng cầu thực tế (tính bằng đơn vị tiền lương), giả thiết đó
chẳng qua chỉ là một xấp xỉ đầu tiên, nếu chúng ta thừa nhận rằng có nhiều cách để chi tiêu phần gia tăng của thu
nhập. Vì, theo giả thiết của chúng ta, cách phần bố phần gia tăng của tổng cầu giữa các mặt hàng khác nhau có thể
ảnh hưởng đáng kể đến khối lượng việc làm. Chẳng hạn, nếu lượng cầu gia tăng chủ yếu hướng vào các sản phẩm
có độ co giãn của việc làm cao, thì tổng lượng gia tăng về việc làm sẽ lớn hơn là khi lượng cầu gia tăng chủ yếu
hướng vào các sản phẩm có độ co giãn của việc làm thấp.

Tương tự như vậy, số người có việc làm có thể giảm mà trước đó không có một biến động nào về tổng cầu,

nếu định hướng của lượng cầu thay đổi có lợi cho các sản phẩm có độ co giãn của việc làm tương đối thấp.

Những nhận định này là đặc biệt quan trọng nếu chúng ta quan tâm đến những hiện tượng ngắn hạn hiểu theo

nghĩa là những biến động về lương và hướng của nhu cầu mà không thể dự đoán trước một thời gian nào đó. Cần
khá nhiều thời gian để làm ra một số loại sản phẩm, cho nên hầu như không có khả năng tăng nhanh việc cung ứng
các sản phẩm đó. Do đó, nếu lượng cầu tăng thêm được hướng vào các sản phẩm này mà không báo trước, thì việc
sản xuất chúng sẽ có độ co giãn thấp của việc làm, mặc dù khi đã báo trước khá lâu, có thể là độ co giãn của chúng
về thu dụng xấp xỉ bằng một.

Chính trong bối cảnh này tôi mới hiểu ý nghĩa cơ bản của khái niệm về thời kỳ sản xuất. Đúng hơn là tôi phải

nói rằng

(5)

một loại sản phẩm có một thời kỳ sản xuất n, nếu phải biết trước n đơn vị thời gian thông báo về những

biến động trong lượng cầu về sản phẩm đó, nếu sản phẩm đó phải có độ co giãn của việc làm là tối đa. Theo nghĩa
này, rõ ràng là hàng tiêu dùng, xét về tổng thể, có thời kỳ sản xuất dài nhất, vì chúng tạo thành giai đoạn cuối cùng
của mỗi quá trình sản xuất. Như vậy, nếu xung đầu tiên (làm cho lượng cầu thực tế tăng) là bắt nguồn từ việc tăng
tiêu dùng, thì độ co giãn của việc làm ban đầu sẽ còn thấp hơn nữa so với mức cân bằng cuối cùng, và chênh lệch
này sẽ lớn hơn, nếu xung đó bắt nguồn từ việc tăng đầu tư. Hơn nữa, nếu lượng cầu gia tăng được hướng vào các
sản phẩm có độ co giãn của việc làm tương đối thấp, thì phần lớn của lượng cầu đó sẽ làm tăng thêm thu nhập của
các chủ doanh nghiệp và phần nhỏ làm tăng thêm thu nhập của những người làm công ăn lương và các nhân tố
khác tạo nên giá thành. Và có thể xảy ra hậu quả là những tác động phản hồi sẽ ít tạo điều kiện cho chi tiêu, vì có
khả năng là các nhà doanh nghiệp sẽ tiết kiệm nhiều hơn trong số thu nhập gia tăng của họ so với những người
làm công ăn lương. Tuy nhiên, không được cường điệu sự khác biệt giữa hai trường hợp này, vì phần lớn các tác
động phản hồi sẽ rất giống nhau trong cả hai trường hợp

(6)

.

Dù các nhà doanh nghiệp có biết trước bao lâu chẳng nữa về triển vọng biến động của lượng cầu, thì khi có

một lượng gia tăng đầu tư nhất định độ co giãn của việc làm ban đầu cũng không thể lớn cân bằng giá trị cân bằng
cuối cùng của nó, trừ phi có hàng hoá dư thừa và năng lực sản xuất dư thừa ở mỗi giai đoạn sản xuất. Mặt khác,
việc hàng hoá dư thừa vơi dần sẽ có tác động bù trừ đối với lượng gia tăng đầu tư. Nếu chúng ta giả thiết rằng lúc
đầu ở mỗi công đoạn đều có lượng dư thừa nào đó, thì độ co giãn của việc làm ban đầu có thể xấp xỉ bằng một.
Rồi sau khi hàng tồn kho đã tiêu thụ hết, nhưng trước khi lượng cung gia tăng từ những giai đoạn đầu của sản xuất
đến một mức độ đầy đủ, thì độ co giãn sẽ giảm xuống, rồi lại tăng lên bằng một khi vị trí cân bằng mới được xác
lập. Song, việc này phải tuân theo một điều là chừng nào còn có các nhân tố sinh lợi tức thu hút chi tiêu nhiều hơn,
khi lượng việc làm tăng, hoặc nếu lãi suất tăng. Ví những lý do này, sự ổn định hoàn toàn về giá cả là không thể có
được trong một nền kinh tế đầy biến động, trừ phi trên thực tế có một cơ chế đặc biệt nào đó duy trì ở mức độ vừa
phải những biến động tạm thời về khuynh hướng tiêu dùng. Nhưng sự bất ổn định giá cả nảy sinh như vậy không
gây nên kiểu kích thích lợi nhuận mà có thể tạo ra năng lực sản xuất dư thừa. Vì món lợi trời cho sẽ hoàn toàn
thuộc về các chủ doanh nghiệp tình cờ có những sản phẩm ở trình độ sản xuất tương đối tiên tiến, còn chủ doanh
nghiệp mà không có các nguồn lực chuyên dụng cần thiết, thì không thể làm gì để thu hút món lợi ấy cho mình. Vì
thế, sự bất ổn định không thể tránh được của giá cả do có biến động không thể ảnh hưởng đến hành động của các
chủ doanh nghiệp, mà chỉ chuyển của trờ cho có thực vào tay những người may mắn (có sự thay đổi cần thiết khi
giả thiết có biến động theo chiều khác). Thực tế này, theo tôi, đã bị xem nhẹ trong một số cuộc tranh luận hiện nay
về một chính sách thực tế nhằm ổn định giá cả. Đúng là trong một xã hội dễ biến động một chính sách như vậy

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.