LÝ THUYẾT TỔNG QUÁT VỀ VIỆC LÀM, LÃI SUẤT VÀ TIỀN TỆ - Trang 278

đúng hơn, những yếu tố bao hàm trong giá thành) quyết định mức độ tiền lương danh nghĩa phải tăng khi lương
danh nghĩa tăng, và e

e

và e

o

biểu thị những yếu tố vật chất quyết định mức lợi tức giảm dần khi nhiều nhân lực

nữa được sử dụng với số trang thiết bị sẵn có.

Nếu dân chúng giữ một tỷ lệ bất biến về thu nhập bằng tiền của họ thì e

d

= 1 nếu tiền lương danh nghĩa là cố

định thì e

w

= 0; nếu mọi nơi có lợi tức bất biến khiến cho lợi tức biên bằng lợi tức trung bình thì e.e

o

= 1; và nếu

sử dụng hết lao động hoặc trang thiết bị thì e

e

.e

o

= 0.

Lúc này e = 1 nếu e

d

= 1 và e

w

= 1; hoặc nếu e

d

= 1, e

w

= 0 và e

e

.e

o

= 0; hoặc nếu e

d

= 1 và e

o

= 0, và rõ ràng

có nhiều trường hợp đặc biệt khác nữa trong đó e = 1. Nhưng nói chung e không bằng 1, và có lẽ ta có thể khái
quát chắc chắn là trên cơ sở những giả thiết đáng tin cậy về thế giới thực tại và loại trừ trường hợp bỏ tiền mà chạy
khi e

d

và e

w

có giá trị lớn và nói chung e sẽ nhỏ hơn 1.

VII

Cho đến nay chúng ta chủ yếu quan tâm đến cách thức các biến động về khối lượng tiền tệ tác động đến giá

cả trong thời gian ngắn. Nhưng về lâu dài thì phải chăng không có mối quan hệ đơn giản hơn một chút nào ư?

Đây là một vấn đề khái quát hoá mang tính lịch sử chứ không phải để đưa ra một lý thuyết thuần tuý. Nếu có

xu hướng tình trạng ưu tiên chuyển hoán không thay đổi trong dài hạn thì sẽ có mối quan hệ ước lượng giữa thu
nhập quốc dân và khối lượng tiền tệ cần thiết để thoả mãn sự ưa chuộng tiền mặt, được coi như số trung bình trong
các thời kỳ bi quan và lạc quan. Thí dụ, có thể có một tỷ lệ khá ổn định của thu nhập quốc dân mà vượt qua mức
đó dân chúng sẽ không muốn giữ tiền mặt dưới dạng số dư nhàn rỗi trong thời gian dài, với điều kiện lãi suất cao
hơn mức tối thiểu nào đó về mặt tâm lý; vì vậy nếu khối lượng tiền tệ ngoài khối lượng cần thiết trong lưu thông,
vượt quá tỷ lệ này của thu nhập quốc dân thì sớm hay muộn sẽ có xu hướng lãi suất giảm xuống gần tới mức tối
thiểu này. Trong những điều kiện khác như nhau lãi suất giảm sẽ làm cho cầu thực tế tăng, và cầu thực tế tăng sẽ
dẫn đến một hoặc nhiều điểm bán tới hạn khi đơn vị tiền lương sẽ có xu hướng tăng không liên tục và có tác động
tương ứng đối với giá cả. Sẽ nảy sinh những xu hướng ngược lại nếu khối lượng tiền dư thừa biểu hiện một tỷ lệ
thấp bất bình thường trong thu nhập quốc dân. Như vậy, tác động thực sự của những biến động trong một thời kỳ
sẽ là xác lập một con số trung bình phù hợp với tỷ lệ ổn định giữa thu nhập quốc dân và khối lượng tiền tệ mà về
mặt tâm lý sớm hay muộn dân chúng cũng sẽ quay lại tỷ lệ đó.

Những xu hướng này sẽ gặp ít trở ngại theo hướng đi lên hơn là theo hướng đi xuống. Nhưng nếu khối lượng

tiền tệ tiếp tục rất thiếu hụt trong một thời gian dài thì bình thường cách thoát sẽ là thay đổi bản vị tiền tệ hoặc hệ
thống tiền tệ để tăng khối lượng tiền tệ, chứ không phải là hạ thấp đơn vị tiền lương, do đó tăng gánh nặng nợ nần.
Vì vậy về lâu dài giá cả hầu như luôn luôn vận động theo hướng đi lên. Bởi vì khi tiền tệ tương đối dồi dào thì đơn
vị tiền lương tăng; và khi tiền tệ tương đối hiếm thì người ta phải tìm cách tăng khối lượng thực tế của tiền tệ.

Trong thế kỷ 19, việc tăng dân số và có nhiều phát minh, việc khai phá những vùng đất mới, mức độ tin cậy

và việc chiến tranh hay xảy ra. Thí dụ, trung bình mỗi thập kỷ một lần, cùng với khuynh hướng tiêu thụ, hình như
là những điêu kiện đủ để lập nên một đô thị hiệu suất biên của vốn cho phép có một mức sử dụng nhân công trung
bình thoả đáng phù hợp với lãi suất cao vừa phải để các chủ sở hữu của cải có thể chấp nhận được về mặt tâm lý.
Các bằng chứng là suốt thời gian gần 150 năm, lãi suất tiêu biểu dài hạn tại các trung tâm tài chính hàng đầu là
khoảng 5%, và lợi tức của chúng giữa 3 và 3.5%, và những mức lãi suất này là khiêm tốn đủ để khuyến khích mức
đầu tư phù hợp với mức sử dụng nhân công trung bình, không thấp đến mức không thể chịu đựng nổi. Đôi khi đơn
vị tiền lương, nhưng thường là bản vị tiền tệ, hay là hệ thống tiền tệ (đặc biệt là qua sự phát triển của đồng tiền
ngân hàng) sẽ được điều chỉnh để đảm bảo rằng khối lượng tiền tệ tính theo đơn vị tiền lương là đủ để thoả mãn sự
ưa chuộng tiền mặt bình thường, với lãi suất ít khi thấp hơn tỷ suất tiêu chuẩn nêu ở trên. Thường thường đơn vị
tiền lương nói chung có xu hướng tàng lên đều đặn chắc, nhưng hiệu suất của lao động cũng tăng. Vì vậy có sự
cân bằng về tác nhân ở mức đảm bảo giá cả ở mức khá ổn định - số trung bình cao nhất trong 5 năm theo chỉ số
của Sauerbeck, từ 1820 đến 1914, chỉ cao hơn mức thấp nhất 50%. Đây không phải là ngẫu nhiên. Tình hình này

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.