LÝ THUYẾT TỔNG QUÁT VỀ VIỆC LÀM, LÃI SUẤT VÀ TIỀN TỆ - Trang 72

ta sẽ gọi đơn vị thể hiện khối lượng việc làm là đơn vị lao động và tiền lương danh nghĩa của một đơn vị lao động
được gọi là đơn vị tiền lương

(5)

. Như vậy, nếu E là quỹ tiền công (hoặc tiền lương), W là đơn vị tiền lương và N là

khối lượng việc làm, thì ta có E = N.W.

Giả thuyết về tính đồng nhất trong việc cung ứng lao động không hề bị đảo lộn bởi sự việc hiển nhiên là có

những sự khác biệt lớn về kỹ năng chuyên môn của từng công nhân và sự phù hợp của họ đi với những công việc
khác nhau. Vì nếu tiền công của người lao động cân xứng với hiệu suất của họ, thì những sự khác biệt được xử lý
bằng cách chúng ta coi các cá nhân đóng góp vào số cung lao động cân xứng với số tiền công các cá nhân đóng
góp vào số cung lao động. Và khi sản lượng tăng, nếu một doanh nghiệp nào đó cần phải tăng thêm số lao động để
sản xuất mà số nhân công tăng thêm đó lại có năng suất kém hơn so với mục đích sản xuất đặc biệt của doanh
nghiệp tính theo đơn vị tiền lương trả cho họ, thì điều này tất yếu là một trong những yếu tố cho lợi tức ngày càng
giảm từ số vốn trang bị, xét về mặt sản lượng khi có nhiều lao động hơn được sử dụng để điều khiển các trang bị
máy móc đó. Có thể nói là chúng ta quy về một nhóm theo tính không đồng nhất của các đơn vị lao động được trả
công bằng nhau dùng cho máy móc, thiết bị mà chúng ta coi như ngày càng kém thích hợp để khai thác các đơn vị
lao động sẵn có, khi sản lượng gia tăng, chứ không phải coi các đơn vị lao động sẵn có càng ngày càng kém thích
hợp để sử dụng một số vốn trang bị đồng nhất. Như vậy, nếu không dư thừa số lao động có chuyên môn hay thành
thạo qua thực tế sản xuất và việc sử dụng lao động kém thích hợp hơn gây ra chi phí lao động cao hơn tính theo
mỗi đơn vị sản phẩm, thì điều này có nghĩa là tỉ suất lợi tức từ trang bị máy móc giảm khi số lượng lao động sử
dụng tăng, và tỷ suất này tăng nhanh hơn so với trường hợp có dư thừa lao động

(6)

. Ngay cả trong trường hợp giới

hạn, khi mà các đơn vị lao động đã được chuyên môn hoá cao độ đến mức hàng tuần không thể thay thế cho nhau
được, cũng không có gây cấn gì cả, vì điều này chỉ có nghĩa là độ co giãn về mặt cung ứng sản phẩm làm ra từ
một loại trang thiết bị sản xuất nhất định nào đó đột nhiên giảm xuống số không khi tất cả số lao động chuyên môn
hoá sẵn có để dùng thiết bị này đều đã được sử dụng

(7)

. Do đó, giả thiết của chúng ta về một đơn vị lao động đồng

nhất không gây ra trở ngại nào cả, trừ khi có sự bất ổn định trong tiền công tương đối trả cho các đơn vị lao động
khác nhau; và ngay cả trở ngại đó cũng có thể xử lý được, nếu nó xảy ra, bằng cách giả định có một khả năng thay
đổi nhanh chóng về số cung lao động và về hình dạng của hàm số cung tổng hợp.

Tôi tin rằng phần lớn rắc rối phức tạp không cần thiết có thể tránh được; nếu như chúng ta tự giới hạn nghiêm

ngặt ở hai đơn vị tiền tệ và lao động. Khi chúng ta nghiên cứu cách vận động của hệ thống kinh tế nói chung; dành
việc sử dụng các đơn vị sản lượng riêng biệt và các trang thiết bị cho các trường hợp khi chúng ta phân tích sản
lượng của các doanh nghiệp hoặc các ngành công nghiệp riêng lẻ; và việc sử dụng các khái niệm mơ hồ như số
lượng sản phẩm, số lượng thiết bị vốn nói chung và mức giá chung cho các trường hợp khi chúng ta cố gắng tiến
hành một vài so sánh có tính lịch sử mà trong giới hạn nào đó có thể khá rộng là không chính xác mà chỉ gần đúng
mà thôi.

Suy ra là chúng ta sẽ đo lường các lượng thay đổi trong sản lượng hiện tại bằng cách căn cứ vào số giờ lao

động đã được trả công hoặc để thoả mãn người tiêu dùng hay để sản xuất ra các trang thiết bị mới, được sử dụng
trên các trang thiết bị hiện có, còn số giờ lao động lành nghề được tính theo tỷ lệ tiền công trả cho họ. Chúng ta
không cần phải so sánh định lượng giữa sản lượng này với sản lượng có thể đạt được bằng cách kết hợp một nhóm
công nhân khác với một lượng máy móc trang bị khác. Để dự kiến việc các nghiệp chủ có sẵn một số máy móc,
trang thiết bị nào đó sẽ đối phó như thế nào trước sự thay đổi của hàm số cầu tổng hợp, chúng ta không cần phải
biết tổng sản lượng thu được, mức sinh hoạt và mức giá chung biến đổi như thế nào so với trước đó ở một thời
điểm khác hoặc ở một nước khác.

IV

Dễ dàng thấy rằng các điều kiện cung ứng như thường được thể hiện qua đường cung, và tính co giãn của

lượng cung gắn sản lượng với giá cả, có thể được giải quyết bằng hai đơn vị mà chúng ta đã chọn thông qua hàm
số cung tổng hợp mà không cần tham khảo đến các số lượng sản phẩm dù cho chúng ta lưu ý tới một doanh nghiệp

Liên Kết Chia Sẽ

** Đây là liên kết chia sẻ bới cộng đồng người dùng, chúng tôi không chịu trách nhiệm gì về nội dung của các thông tin này. Nếu có liên kết nào không phù hợp xin hãy báo cho admin.