Do đó, thông tin càng được thu thập sớm, thì nó càng giúp gia tăng giá trị
cho quá trình đàm phán.
Khi lượng cổ phiếu mua vượt quá một ngưỡng nào đó, theo các quy định
về giao dịch chứng khoán tại phần lớn các quốc gia, cổ đông mua phải thông
báo công khai về tình trạng sở hữu của mình; và đến khi đó, có thể các biện
pháp hạn chế khác cũng được áp dụng. Ví dụ, tại Anh, khi một cổ đông nắm
giữ hơn 3% lượng cổ phiếu hiện có của một công ty, cổ đông này sẽ phải
công bố thông tin đó trong vòng hai ngày sau khi thực hiện giao dịch; không
những thế, tất cả các cuộc mua bán cổ phiếu tiếp theo của cổ đông này tại
công ty cũng phải được công bố. Tác dụng của quy định này là thông báo
cho thị trường biết rằng một công ty mua tiềm năng đang xuất hiện.
Việc xây dựng một lượng cổ phiếu bước đệm có thể giúp công ty mua
mua cổ phiếu của công ty mục tiêu với giá rẻ hơn, bởi chúng thường được
mua trước thời điểm công bố giao dịch M&A và vì thế, chưa áp dụng lợi
nhuận mua lại đối với giá cổ phiếu. Như vậy, số cổ phiếu bước đệm sẽ giúp
hạ thấp chi phí trung bình của giao dịch (điều ngược lại cũng có thể xảy ra
tuỳ thuộc vào các điều kiện thị trường). Một số hệ thống luật pháp (chẳng
hạn tại Anh) đưa ra những quy định đối với mức giá của đề nghị M&A trong
trường hợp công ty mua có cổ phiếu bước đệm (giá trị của đề nghị ít nhất
phải cao bằng mức giá cao nhất trả cho các cổ phiếu trong ba tháng trước
đó). Một lợi thế khác của cổ phiếu bước đệm là nó có thể mang lại cho công
ty mua một vị trí đối trọng với lãnh đạo của công ty mục tiêu, bởi vì lúc này
công ty mua vừa là đối tác đưa ra đề nghị mua lại, lại vừa là cổ đông của
công ty. Nếu có bất kỳ quyết định nào cần sự ủng hộ của cổ đông, thì công
ty mua hiện cũng đã nắm quyền kiểm soát đối với một số cổ phần trong
công ty. Tương tự, công ty mua cũng có thể tiếp cận được các thông tin mà
chỉ những cổ đông lớn mới có được.
Một điều tưởng như hết sức rõ ràng là các Bên Mua không thân thiện đều
mong muốn có được một lượng cổ phiếu bước đệm tại công ty mục tiêu
trước khi công khai đề nghị của mình. Tuy nhiên, một nghiên cứu do Arturo
Bris của trường Đại học Yale thực hiện lại cho thấy chỉ có 15% trong số các