Công ty Quaker Oats được thành lập từ đầu thế kỷ XX. Sản phẩm nổi
tiếng nhất của hãng – Ngũ cốc Quaker Oats – được xuất xưởng lần đầu
năm 1877. Vào thời điểm diễn ra vụ mua lại đầu tiên, Quaker Oats là
một trong những nhà sản xuất hàng đầu về các sản phẩm ngũ cốc tại
Mỹ; bên cạnh đó, công ty cũng mở rộng sang các lĩnh vực kinh doanh
khác như đồ ăn cho trẻ em, thức ăn cho động vật, sô-cô-la (tại Mexico),
và mật ong (tại Hà Lan). Một trong những đợt mở rộng thành công nhất
gần đây vào năm 1983 công ty đã mua lại Gatorade - một công ty
chuyên về đồ uống trong thể thao – thành công. Dưới sự quản lý của
Quaker Oats, Gatorade đã lớn mạnh nhanh chóng. Thành công này đã
phần nào khiến Quaker Oats thấy rằng ngành kinh doanh chính của
mình đã trưởng thành, nên công ty cần tập trung vào “các khoản đầu tư
vào các công ty có tiềm năng phát triển cao và loại bỏ những lĩnh vực
kinh doanh phát triển kém, ít lợi nhuận” (trích Báo cáo thường niên của
công ty năm 1995).
Snapple lúc đó là một công ty biết bắt kịp thời đại, tuy có hơi lập dị đôi
chút. Công ty này được thành lập từ năm 1972 do ba doanh nhân (hai
người nguyên là nhân viên lau rửa cửa sổ và một người là chủ cửa hàng
bán thực phẩm dinh dưỡng). Với thương hiệu “Snapple” (sử dụng từ
năm 1978), dòng sản phẩm của họ đã được quảng bá theo con đường
truyền miệng và trở thành một trong những công ty sản xuất đồ uống
trái cây bán chạy nhất ở khu vực Đông Bắc Mỹ. Năm 1987, công ty
này còn mở rộng thêm mặt hàng trà lạnh đóng lon
.
Trong khi Quaker Oats là một công ty truyền thống với quy mô toàn
quốc thì Snapple lại là một công ty gia đình với quy mô khu vực và có
cung cách hoạt động mới. Snapple không có đủ nguồn lực để tiếp tục
mở rộng. Thêm vào đó, trước làn sóng cạnh tranh gay gắt mới của các
nhà sản xuất đồ uống lớn trong nước (Coca-Cola và Pepsi), Snapple
buộc phải tìm người mua lại công ty.
Quaker Oats cho rằng giữa Gatorade và Snapple có một số điểm tương
trợ tiềm năng rất quan trọng. Thoạt nhìn, có vẻ như hai công ty cùng có