địa khi nền kinh tế đang suy thoái sau đợt bùng nổ bong bóng các công
ty có tên miền dot.com. Vì vậy, yêu cầu ngừng mở rộng thị trường sang
châu Âu đối với ngân hàng này thuần túy chỉ xuất phát từ nỗi lo sợ của
công ty định mức tín nhiệm về việc thị trường sẽ suy nghĩ như thế nào
về sự mở rộng này, chứ không phải do họ cho rằng ngân hàng đó đã ra
một quyết định kinh doanh không hiệu quả.
Trong trường hợp này, rõ ràng ngân hàng trên đã bỏ qua công ty định
mức tín nhiệm với tư cách là một cổ đông lớn (hoặc thậm chí với vai
trò một nhà tư vấn, theo như cách làm của một số công ty), để rồi cuối
cùng, công ty này đã khiến họ sửng sốt sau khi ngân hàng công bố về
sự thành công của giao dịch. Công ty này nắm quyền kiểm soát các
hành động của ngân hàng và đó là một mối đe dọa lớn mà ngân hàng
không thể bỏ qua.
Cuối cùng, ông này giải thích tại sao những người có thẩm quyền đưa ra
quyết định cuối cùng lại thường đến từ nhiều nhóm khác nhau, nhờ vậy mà
khi làm việc với các cổ đông, những cổ đông công ty sẽ có nhiều ý kiến và
quan điểm khác hơn so với từng cá nhân riêng lẻ. Dựa vào quy mô và lượng
cổ phần các đối tượng cổ đông sở hữu nói chung, cần áp dụng phương pháp
tiếp cận khác nhau đối với những nhóm cổ đông quan trọng. Vì vậy, cho dù
ở hoàn cảnh nào, cũng nên xác định, tìm hiểu và quản lý những nhóm cổ
đông có quyền lực ở nhiều cấp độ khác nhau. Cổ đông chính là những người
sẽ quyết định số phận của một giao dịch tại giai đoạn sáp nhập.
Ví dụ trên đây đã cho thấy một cách rõ ràng nhu cầu cần phải xác định
xem ai nắm quyền kiểm soát hoặc có ảnh hưởng tới các quyết định quan
trọng tại tất cả các cấp độ. Có lẽ nếu ngân hàng trong ví dụ trên nhận ra
trước rằng công ty định mức tín nhiệm của họ sẽ có ý kiến như thế nào thì
họ đã có thể trấn an thị trường cũng như công ty này, và thực hiện được một
số hành động khác để chứng minh cho những cam kết của mình. Nếu làm
được điều này, họ sẽ có thể tiếp tục sở hữu công ty kia, đồng thời duy trì
được kế hoạch mở rộng thị trường Đông Âu của mình thay vì phải vội vã rút
lui trước áp lực của công ty định mức tín nhiệm, mà kết quả là họ phải gánh