Dù gần hai mươi năm đã trôi qua, không có lý do gì cho thấy tôi sẽ có
thêm chút may mắn nào, tôi tự nhủ khi nhìn lên tòa nhà bên kia đường.
Cách chỉ vài trăm mét sau lưng tôi, tháp Eiffel vươn cao sừng sững. Tôi cố
giữ kín đáo khi đếm các tầng của tòa nhà. "Một bà già gan lì", tôi nghĩ.
Theo những gì mà nhiều người biết, trong đó có những người được gợi là
chuyên gia mà tôi đã phỏng vấn, bà Nhu đang sống trong một biệt thự xập
xệ tường vôi trắng, đâu đó ở ngoại ô Rome. Đã từng có những đồn đoán về
việc bà còn sống hay đã chết.
Nhưng tôi có lý do để tin rằng bà ở đây, giữa Paris.
Việc tôi tìm hiểu bà Nhu bắt đầu đơn thuần vì tò mò. Tôi ra đời năm
1976, khoảng mười bảy tháng sau khi kết thúc chiến tranh [Việt Nam]. Như
hầu hết những đứa trẻ lớn lên trong những năm 1980, những hiểu biết đầu
tiên của tôi về Việt Nam đến từ phim ảnh; người lớn chắc chắn đã không
nói nhiều về nó; nó là một tạp âm của những cánh quạt máy bay trực thăng
đập mạnh, những lều tranh bốc cháy, và những cánh rừng nhiệt đới bị bom
na-pan tàn phá. Tôi giữ mãi ấn tượng đó cho đến năm thứ hai đại học, khi
tôi ghi danh một học kỳ nước ngoài tại Đại học Quốc gia Việt Nam ở Hà
Nội, mà tôi nghĩ chỉ học cho vui. Bộ Ngoại giao Mỹ khuyến cáo nên tiêm
phòng bệnh thương hàn, uốn ván, và bệnh dại, cũng như mang theo thuốc
chống muỗi và i-ốt. Cha tôi sửng sốt: "Cha đã trải qua những năm hai mươi
tuổi tìm cách thoát ra khỏi Việt Nam, còn bây giờ thì con tìm cách bước
vào đó!"
Đến trước năm 2003 tôi đã lấy được bằng thạc sĩ về châu Á học, đã
sống ở Việt Nam hai lần, và nhận được học bổng của Bộ Giáo dục Mỹ, điều
đó khiến tôi hết sức tự tin vào các kỹ năng tiếng Việt của mình - miễn là chỉ
nói về những chuyện đơn giản, như thực đơn hay thời tiết. Nhưng khi nghĩ
đến chuyện tìm một việc làm thực sự, tôi ước gì tôi đã làm nhiều hơn là lấy
được chiếc bút CIA tuyệt đẹp tại hội chợ việc làm cho sinh viên.