thống Hoa Kỳ, được bù đắp một khoản nho nhỏ xấp xỉ ba trăm triệu đô la
cho bước chuyển này. Nhưng là một doanh nhân lọc lõi, ông ta còn khiến
cho người ta phải trả một khoản thù lao nho nhỏ là cổ phần công ty. Hẳn là
ông ta đã sai lầm nếu không nhận chúng, vì sau khi dối trá về sự tồn tại của
các vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Irak và những mối liên hệ giữa Al-Qaeda và
Saddam Hussein, ông ta đã sử dụng toàn bộ quyền lực của mình để kích
động mở màn cuộc chiến tranh Irak, biến nó thành vụ trả đũa cho vụ khủng
bố 11 tháng Chín. Cuộc chiến mà phần lớn hậu cần được giao cho các lực
lượng bảo an mà công ty cũ của ông ta là nguồn cung ứng vật tư. Và những
cổ phần đó hẳn đã sinh lời dồi dào vì, trong suốt nhiệm kỳ phó tổng thống
Hoa Kỳ, công ty đa quốc gia của ông ta đã vơ vét dược gần bảy tỷ đô la từ
các hợp đồng với chính phủ. Chính ông ta, với tư cách là tổng chỉ huy các
chiến dịch quân sự, đã phân bổ những hợp đồng kỳ quái này. Và nốt điều
này thôi, nếu như có một mục đích cho các mưu toan của ông ta, thì đó là
ông ta trực tiếp dính líu tới vụ Enron. Một trong những vụ bê bối dầu mỏ
lớn nhất từ trước đến nay, trong khi thời đó ông ta cũng đứng đầu ủy ban
quốc gia về phát triển năng lượng. Suýt thì tôi quên, ông ta còn bị nghi ngờ
là kẻ đầu trò của vụ Valerie Plame. Valerie Plame là một điệp viên CIA, vỏ
bọc của bà này đã bị phanh phui trên báo chí qua những nguồn tin rò rỉ từ
Nhà Trắng. Valerie Plame còn là vợ của một vị đại sứ Mỹ, người đã phạm
sai lầm khi là một trong những người đầu tiên khẳng định rằng các báo cáo
trình Quốc hội về sự tồn tại của vũ khí hủy diệt hàng loạt ở Irak đã bị làm
giả và các bằng chứng đều được ngụy tạo. Cô còn muốn đi gặp ông ta để trò
chuyện về bà cô nữa không?
-
Làm sao anh biết hết những chuyện đó?
-
Có thể là vì tôi dùng một cái có bằng cử nhân báo chí, Andrew đáp với vẻ
vô cùng khó chịu. Người đàn ông đó là một trong ba “chim ưng” của Nhà
Trắng. Và tin tôi đi, sự giống nhau đó không hẳn là khiến những người bảo
vệ loài chim này thích thú gì đâu.