người được giải phóng” của Bô-let-xoáp Prút-xơ
[14]
tìm thấy trong tác phẩm này hình ảnh của chính bản thân mình và của chị em
phụ nữ Ba Lan khao khát học hỏi. Sổ tay nhật ký của cô cho ta biết cuộc
sống nội tâm của một thanh niên đầy tham vọng và quá dồi dào năng khiếu
nên gần như mất phương hướng. Mười trang liền về bút chì minh họa thơ
ngụ ngôn Pháp của La Phông-ten
[15]
(La Fontaine-NS). Các bài thơ tiếng
Ba Lan và tiếng Đức. Một trích đoạn của Mắc Noóc-đô
[16]
(Max Nordot-
NS), nhiều đoạn của Kra-zit-ki
[17]
(Ignacy Krasicki-NS), Xlô-vat-xki
[18]
(Juliusz Slovacki-NS) và Hai-nơ
[19]
(Heinrich Heine-NS). Ba trang của Rơ-
năng
[20]
(Ernest Ronan-NS) nói về “Cuộc đời Giê-su”, “không ai bằng
Người, đã đề cao lợi ích của Loài người trên những phù hoa trần thế”.
Những tiểu luận triết học bằng tiếng Nga, một đoạn của Luy-Blăn
g
[21]
(Louis Blanc-NS), một trang của Bran-đét-xơ
[22]
Rồi lại đến tranh vẽ hoa lá, giống vật. Lại thơ của Hai-nơ. Rồi đến Mu-
xê
[23]
(Alfred de Musset-NS), Suy-li Pruy-đơm
[24]
NS)và Phơ-răng-xoa Cô-pê
[25]
(François Coppé) do Ma-ni-a dịch ra tiếng
Ba Lan.
Thật là mâu thuẫn. Người con gái có tư tưởng “tự giải thoát”, không
thích diện nên đã cắt phăng mớ tóc hung duyên dáng đi, lại vẫn than thở một
mình và chép lại nguyên những vần thơ tình tứ và hơi nhạt nhẽo như:
Nếu anh cứ nói anh yêu
Mắt xanh em có thấu điều này chăng?
Cố nhiên là Ma-ni-a không bao giờ nói cho các bạn gái cố chấp, rằng
cô thích bài “Vĩnh biệt, Suy-dông em” hoặc bài “Chiếc bình vỡ”, có lẽ cô
cũng không tự thú điều đó ngay cả với bản thân mình. Ma-ni-a thường ăn
mặc nghiêm chỉnh, nhưng bộ mặt non trẻ lạ lùng với mớ tóc ngắn cũn cỡn
chẳng những không làm nổi bật được phong cách của cô mà còn làm cô gái
trông ngây thơ hơn.
Hết đi học lại nói chuyện, đến đâu Ma-ni-a cũng hăng say tranh luận.