ngàn đô-la. Ông ta làm thế nào mà được như thế? Là người thật thà, biết
giữ chữ tín, cần cù, tiết kiệm, ông ta tự kiềm chế, lánh xa mọi thú vui mà
hầu hết những người trẻ tuổi đều vướng vào. Ông ta đặt kế hoạch nhất thiết
mỗi tuần phải để dành được bao nhiêu đó, dù phải hạn chế các khoản chi
tiêu khác. Tất nhiên, chẳng bao lâu, lương của ông ta được tăng hơn ba đô-
la, và lương tăng thì ông ấy lại để dành ngày càng nhiều hơn.
Ban ngày đi làm, tối ông ta lại theo học lớp ban đêm. Ông ta luôn luôn
hướng về tương lai. Sau đó ông ta theo học trường Trung học ban đêm. Khi
mới mười bảy tuổi ông ta đã được ăn lương thợ xếp chữ vào loại cao nhất,
nhưng ông ta là người có nhiều tham vọng. Ông ta muốn có sự nghiệp chứ
không phải chỉ sống bình thường; ông ta vui lòng hy sinh tất cả những cái
trước mắt để đạt được mục đích cuối cùng. Ông ta quyết định học luật và
xin vào tập việc trong phòng luật sư của cha tôi. Ông cứ thử nghĩ mà xem -
mỗi một tuần lễ chỉ được có bốn đô-la. Nhưng ông ta đã biết cách tiết kiệm,
lương có bốn đô-la mà ông ta vẫn để dành được đấy."
Nàng ngừng lại để lấy hơi và để xem Martin tiếp thu câu chuyện ra
sao. Nét mặt gã rạng lên thích thú khi nghe kể những cuộc vật lộn thuở
thiếu thời của ông Butler, nhưng trên mặt gã cũng có nét cau lại.
"Tôi cho rằng đối với một người trẻ tuổi, cuộc sống như thế cũng khá
gay go đấy!" Gã nhận định. "Bốn đô-la một tuần, ông ta làm thế nào mà
sống nổi? Cô có thể yên trí là sống như thế thì đói rách lắm. Chứ sao,
nguyên tiền trọ bây giờ tôi cũng đã mất năm đô-la một tuần mà cũng chẳng
có gì là thú vị cả, Cô cứ tin thế cho. Hẳn là ông ta phải sống như một con
chó. Thức ăn của ông ấy... "
"Ông ta nấu lấy ăn," Ruth ngắt lời, "bằng một cái bếp cồn nhỏ."
"Thức ăn ông ta ăn chắc còn phải tồi tệ hơn thức ăn của anh em thủy
thủ trên những tàu đánh cá, nơi mà chúng tôi cho rằng không đâu có thể tồi
hơn được nữa!"