- Mật hiệu đây. - Tôi rút trong áo choàng ra một cái bay tuy không to
nhưng sáng loáng.
- Cậu không đùa tôi đấy chứ! - Anh ta kêu lên, lùi lại vài bước. -
Nhưng chúng ta hãy cứ đi tìm cho ra thùng rượu cái đã.
- Được thôi!
Tôi vừa nói vừa đút cái bay vào trong áo khoác rồi nắm lấy tay anh ta,
dắt đi. Anh ta vịn vào người tôi, rõ nặng, tiếp tục cuộc hành trình tìm rượu.
Chúng tôi đi men theo một hành lang cuốn vòm thấp, xuống hết một cầu
thang, dừng lại ở nơi sâu nhất trong hầm rượu. Nơi ấy bầu không khí tù
hãm, hôi hám đến nỗi làm cho ngọn đuốc của chúng tôi sáng rực lên. Nơi
sâu nhất trong hầm rượu cũng là nơi hẹp nhất. Ba mặt tường bên trong dày
đặc xương người, chất cao đến tận nóc, xếp theo kiểu các hầm mộ nổi tiếng
ở Paris. Dưới chân bức tường thứ tư, nhiều bộ xương đổ xuống lộn xộn, tạo
thành những đống không ra hình thù. Nhìn sâu vào bên trong những đống
xương đổ ấy, chúng tôi nhận ra một cái ngách hõm vào bên trong, chiều sâu
khoảng một mét hai, rộng chín mươi phân, cao chừng hai mét. Dường như
cái ngách đó không phải là do chủ ý xây dựng, vì một mục đích đặc biệt
nào đó mà nó được hình thành bởi khoảng cách giữa hai hàng trụ đỡ hầm
tạo nên. Nó được chắn phía sau bằng một trong những bức tường bằng đá
granit rất chắc chắn. Thật là việc làm vô ích khi Fooctuynatô nâng cao
ngọn đuốc chỉ còn leo lét lên để cố soi vào bên trong cái hốc tường sâu
hoắm đó. Dưới ánh sáng yếu ớt, chúng tôi chẳng còn nhìn thấy gì nữa.
- Tiến tới đi! - Tôi nói. - Thùng rượu Amotilado ở trong đó. Về phần
Lêkrêsi...
- Lêkrêsi là một kẻ ngu dốt. - Anh ta ngắt lời tôi một cách thô bạo.
Những bước chân của anh ta đi sâu vào bên trong không còn vững nữa.
Tôi vẫn bám sát anh ta. Chỉ trong khoảnh khắc, anh ta đã đi đến cuối
hốc và dường như nhận ra là con đường đã bị chặn bởi bức tường đá nên
liền đứng ngẩn ra hoang mang, do dự.
Ngay lập tức, tôi gỡ sợi xích vốn đã được gắn sẵn từ trước vào bức
tường đá (trên bề mặt bức tường ấy có gắn hai vòng sắt song song với mặt
đất, cách nhau nửa mét, một vòng gắn sợi xích, vòng kia gắn cái khóa