khăn choàng quanh cái lưng còng của mình, dường như chuẩn bị sẵn sàng
chờ đến tối cũng được. Tôi phân vân không hiểu tại sao Naheed lại quyết
định cho gọi tôi khẩn cấp đến như vậy. Ý nghĩ nó đã phát hiện ra bí mật của
tôi làm cho mồ hôi của tôi túa ra ở cổ.
Tôi trở lại với việc dệt của mình, hy vọng người đưa tin sẽ mệt mỏi và
ra về. Chúng tôi làm việc suốt buổi sáng, và sau khi ăn trưa lại dệt thêm
một vài hàng nữa, Katayoon và Malekeh đã ra về. Tôi trở về phòng mình
và ngủ trưa. Khi tôi tỉnh giấc, người đưa tin xuất hiện ở bếp và lau miệng,
bà ấy hỏi tôi đã sẵn sàng chưa. Thở dài một cái, tôi khoác áo choàng và
mạng che mặt, vì tôi biết bà ấy sẽ không về mà không có tôi đi cùng.
Đường phố cũng se lạnh, mặc dù trời rất quang đãng. Ông mặt trời
chói chang soi rọi dường như muốn kiểm tra tất cả mọi việc được sắp đặt ở
bên dưới ngài không chút xót thương. Người bán quả hạch rang, bán hàng
ở gần nhà bác Gostaham, có những nét khắc khổ hằn sâu ở gần môi trông
giống như những vết dao cắt. Khi người đưa tin ngoảnh mặt lại để chắc
mẩm rằng tôi đang đi cùng bà, vết dầu xanh từ loại cỏ cari và món hầm đậu
còn vương bắt nắng lóe lên trông như vết bệnh trên má bà. Tôi rất vui vì đã
giấu mình trong chiếc áo choàng tránh được cái nắng mặt trời chói chang
đang xăm xoi mọi người.
Chúng tôi đi ngang qua trường dòng ở Khu Tứ vườn, ở đó nam sinh
viên được đào tạo trở thành giáo sĩ Hồi giáo. Tôi vẫn còn học viết bài hàng
tuần với Naheed, và nghệ thuật viết chữ đẹp trên các tòa nhà cao tầng trước
đây chỉ được coi là hình thức trang trí cho đẹp bây giờ gọi to lên thành tên
của Chúa: Tử tế - Công bằng - Tình thương - Can trường - Minh bạch -
Không xiêu lòng nao núng.
Khi chúng tôi đến nhà cô bạn, Naheed ấn một xu vào tay bà già có cái
lưng còng và mời bà ta đi ngay. Tôi hôn Naheed trên từng bên má và cởi đồ
khoác ngoài. Tôi khát, nhưng nó chẳng chịu mời tôi uống trà bạc hà của nó.
Mặt nó trông xanh xao, và tôi e rằng cuộc sống của nó trở nên trống trải