lượng về giá cả, và được giảm giá thuê sau khi hứa là sẽ làm giầy cho tất cả
chủ nhà và sẽ sửa tất cả những đồ da nếu cần, vì anh ta là một thợ giầy
trước khi bị ốm. Chúng tôi kết luận rằng, thu nhập vẫn còn ít ỏi, nhưng nhất
trí là chuyện dàn xếp mới này là cách duy nhất chúng tôi có để đặt nhiều
khung cửi cùng một lúc, và gia tăng của cải.
Vào cuối tháng, chúng tôi chuyển tới nơi ở mới. Đó là một ngôi nhà
đóng bằng gạch trát bùn xoàng xĩnh với hai phòng nhỏ ở bên một sân rộng,
và một phòng nhỏ xíu tối đen như thể để làm bếp. Nhưng với tôi, đây như
thể là một cung điện, bây giờ tôi và bầm lại có một phòng riêng của mình.
Đêm đầu tiên, sau khi Davood, Malekeh, và đám nhóc con cái họ biến mất
vào phòng của họ, tôi có một khoảnh sân của riêng mình. Tôi ngồi đó sau
khi mọi người khác đã ngủ, với một bình trà nóng, tận hưởng cái cảm giác
ấm cúng khi được một mình mà bao quanh là những người bạn với tấm
lòng nhân ái.
Có một căn phòng rộng trong sân để chứa hai khung cửi. Davood bận
rộn với việc lắp đặt và treo giá, trong khi tôi và Malekeh kiếm thợ. Chúng
tôi kiếm được năm thợ thêu những người cần kiếm tiền và yêu cầu họ đến
làm thử một ngày. Một trong số họ quá chậm, trong khi một người khác thì
làm quá lỏng, không khít sợi và chẳng thể sửa, nhưng chúng tôi rất hài lòng
với ba người kia và giữ họ lại.
Trước khi bắt đầu, tôi dạy Malekeh làm thế nào để gọi ra các màu của
khung cửi. Cô giám sát Katayoon và một người thợ khác dệt tấm thảm cây
bách thứ hai cho khách hàng của Gostaham, mà thiết kế của bác cô đã quá
quen, trong khi tôi với các công nhân khác chịu trách nhiệm cho tấm thảm
lớn của Maryam. Vào những buổi sáng, âm thanh duy nhất là tiếng gọi
màu, tôi một góc, Malekeh một góc. Bầm tôi nấu ăn cho mọi người, và
hương vị những món ăn bà nấu giúp chúng tôi làm việc tốt hơn, mong
ngóng đến bữa trưa.