với dân nữ, ông ấy thường nói Nghê Kỳ là người cần mẫn và cần phải dồn
hết tâm sức để hỗ trợ hắn làm chủ gia sản. Và Nghê Kỳ đối xử với dân nữ
như một nhi tử mẫu mực, luôn thấy trước mọi ước muốn của thân phụ.”
“Phu nhân, bản quan muốn phu nhân cho biết danh tính vài vị bằng hữu của
Nghê đại nhân ở huyện Lan Phường.”
Mai thị do dự. Rồi nàng đáp, “Bẩm đại nhân, lão gia không thích có bằng
hữu. Ông ấy quen dành buổi sáng ngoài cánh đồng. Buổi chiều, ông ấy sẽ
vào mê cung một mình và ở lại đó khoảng nửa canh giờ.”
“Phu nhân đã bao giờ vào trong mê cung đó chưa?” Địch Công ngắt lời.
Thiếu phụ lắc đầu. “Dân nữ chưa từng vào đó. Lão gia luôn nói trong ấy rất
ẩm thấp. Sau đó, ông ấy hay thưởng trà ở tiểu đình trong khu vườn phía sau
trang viên. Ông ấy có thể đọc sách hoặc vẽ. Dân nữ biết một người là Lý
phu nhân, một họa sư thiên bẩm. Lão gia thường hay mời Lý phu nhân và
dân nữ cùng ông ấy đến tiểu đình để luận bàn về tranh.”
“Lý phu nhân có còn sống không?” Địch Công hỏi.
“Dân nữ nghĩ là bà ấy còn sống. Năm xưa, bà ấy sống cách trang viên nhà
họ Mai không xa. Lý phu nhân thường hay đến thăm dân nữ. Bà ấy là
người nhân hậu, nhưng lại bất hạnh vì phu quân đã qua đời sau hôn sự
không lâu. Dân nữ có lần gặp bà ấy khi bà ấy đang đi qua ruộng lúa gần
điền trang nhà họ Nghê, dường như Lý phu nhân rất quý mến dân nữ. Sau
khi lão gia kết hôn với dân nữ, bà ấy vẫn duy trì mối hữu hảo, và lão gia
cũng rất ủng hộ điều đó.”
“Đại nhân, lão gia là người rất chu đáo! Ông ấy hiểu rằng khi là phu nhân
của một trang viên lớn chỉ toàn những người không quen biết, dân nữ đôi
lúc sẽ thấy cô đơn. Dân nữ biết đó chính là lý do lão gia đồng ý để Lý phu
nhân đến thường xuyên, dù ông ấy không thích có khách đến.”