cung thật.”
Nền dưới chân cũng không khó đi lắm, chắc đã từng được tu sửa.
Hang đá dần rộng ra, bọn họ bắt đầu thấy có những chỗ rẽ sang phải sang trái.
Họ tạm bỏ qua các chỗ rẽ, tiếp tục đi theo lối chính có lắp đèn điện. Đằng nào thì
nếu nhà văn Miyagaki Yotaro trốn vào những đường rẽ kia thật thì bọn họ sẽ rất
khó tìm thấy ông.
“Anh Shimada.” Utayama gọi.
Bỗng đi vào một không gian khác hẳn với không gian quen thuộc hằng ngày,
cảm thấy bất an cũng chẳng có gì là lạ.
“Rốt cuộc có thật sự tồn tại căn phòng Minos ấy không?” Giọng Utayama có
vẻ chán nản.
Đúng vào lúc này, Shimada đi đầu chỉ về bên tay trái, “ở kia kìa.”
Một mảng nâu sẫm phẳng phiu nổi bật trên nền đá đen nham nhở.
“Cửa đây rồi.” Shimada chạy đến chỗ đó, “Hai người nhanh lên.”
Trước mắt họ là một cánh cửa nhỏ bằng gỗ, bên trên gắn tấm biển đồng khắc
tên phòng quen thuộc: MINOS.
Shimada đưa tay cầm nắm đấm. Utayama và Samejima hồi hộp chờ nó mở.
Khung cảnh bên trong căn phòng hiện ra trước mắt mọi người.
Đó là một căn phòng chật chội được đá núi bao quanh, đèn đã bật sẵn, trần rất
cao, nền trải thảm đỏ sẫm.
Chuyển các đồ dùng vào đây thực không dễ, nên đồ nội thất trong này đều gọn
nhỏ xinh xắn. Giữa phòng là một ghế gấp, một cái bàn nhỏ đặt vài đồ dùng văn
phòng, chiếc kính gọng vàng mà nhà văn Miyagaki yêu thích, một chùm chìa
khóa cùng một phong bì màu trắng. Ngoài ra, phòng còn có Bếp điện, một giá
sách nhỏ, một cái kệ gỗ. Và…
“Ôi…” Utayama thở dài khi nhìn thấy ‘thứ’ nằm trên chiếc giường sắt trong
góc phòng, “Bác Miyagaki…”
Hai cánh tay thò ra khỏi chiếc chăn nhăn nhúm, khuôn mặt cứng đơ, vẻ mặt
méo mó đầy đau khổ. Đây mới là hình dáng của nhà văn lão thành Miyagaki
trước khi chết.
“… Ví dụ, anh Utayama à, hồi niên thiếu, tôi từng có mong muốn mãnh liệt…”
Lúc này, câu nói của ông Miyagaki khi gặp Utayama cách đây ba tháng bỗng
lướt qua trong đâu anh.