diện với cầu La Sư, nơi tận cùng đầu bên kia của cánh đồng hoang là
lung linh ánh đèn. Và, không thể ngờ ở đó lại có một thành trì trải rộng
hàng trăm dặm, có sức chứa trên dưới vạn người, quy mô quả thực
không nhỏ. Có điều, do màn đêm mịt mùng, tầm nhìn bị mộ phần và cỏ
hoang che lấp, lại thêm khói bay sương phủ la đà, nên khi nhìn qua đó
chỉ thấy khung cảnh chập chờn lúc mờ lúc tỏ bất định. Trong thành đó
hiện rõ ma khí vô cùng nặng nề, khiến người ta không khỏi dựng tóc gáy
sợ hãi.
La Đại Hải và Hạ Cần cũng phát hiện ra cảnh tượng dị thường đó,
và ba người đều cảm thấy da gà nổi lên từng đợt. Chưa bao giờ bọn họ
nghe nói trong khu nghĩa địa bỏ hoang này lại có sơn thôn, thị trấn. Nơi
đây tuy rất hiếm dấu tích của con người, nhưng ban ngày thỉnh thoảng
vẫn có kẻ qua lại trên đường, có điều chưa ai từng nhìn thấy người sống
trong khu nghĩa địa, nên chẳng hiểu sao tự nhiên hôm nay lại nổi lên một
tòa thành lớn như vậy? Nhìn tòa thành đó âm hiểm dị thường, lẽ nào đó
là ma thành dưới âm phủ?
Tư Mã Khôi và La Đại Hải đều không tin vào mấy chuyện ma quỷ
nên hai người mau chóng định thần, thắp đèn dầu, rút con dao díp ba
khía ra, lăm lăm trong tay, hướng thẳng vào bức thành trì chập chờn mờ
tỏ như ma trơi rồi tiến từng bước đến đó. Bọn họ định nhìn xem rốt cục
là thứ gì đang tác oai tác quái. Hạ Cần tuy rằng không muốn đi, nhưng
cô nàng càng không muốn ở lại một mình dưới chân cầu, nên đành níu
áo Tư Mã Khôi theo sát phía sau.
Ba người hướng tầm mắt nhìn về phía tòa thành ma, lần mò từng
bước trong nghĩa địa, vừa đi vừa phạt cỏ tiến lên. Tuy rằng cả bọn đi rất
lâu trong bóng tối, nhưng dường như càng đi càng cảm thấy chột dạ, vì
bất luận đã đi được khá xa nhưng trước sau vẫn cảm thấy như không thể
đến gần tòa thành ẩn hiện ánh đèn nến ấy.
La Đại Hải trong lòng không tránh khỏi cảm giác rờn rợn, liền
khuyên Tư Mã Khôi: “Tớ thấy bọn mình nên rút đã, hảo hán sợ gì cái
thiệt trước mắt, nếu tiếp tục đi không khéo lại lạc đường mất!”