khí lạnh xuyên thẳng vào đáy tim làm bắp chân tự nhiên co cứng như bị
chuột rút.
Hạ Cần nghe cậu ta nói có chồn tinh trong thành ma, nên chỉ cần
nghĩ thôi mà da gà đã nổi hết cả lên, cô nàng không thể tự kiềm chế được
nỗi sợ hãi đang dần trào dâng trong lòng, sắc mặt trở nên tái nhợt.
Tư Mã Khôi hoàn toàn không tin vào mấy thuyết pháp tà ma kiểu
đó. Cậu biết khu vực Đông Bắc rất sùng bái “Hoàng tiên”, nhưng trước
thời Mãn Thanh, những người dân mê tín chuyện này ở Quan Nội tồn tại
không nhiều lắm, thậm chí có thể nói là gần như không còn, mãi cho đến
sau khi chế độ thiết giáp bát kỳ
[9]
tràn vào Quan Nội, hai nền văn hóa
Hán Mãn bị ảnh hưởng lẫn nhau, Quan Nội mới dần bắt đầu nảy sinh tập
tục thờ Hoàng tiên, về nguyên nhân hình thành “Hẻm ma ám” cũng có
rất nhiều cách giải thích, mấy thuyết pháp dân gian kia tuy chưa hẳn là
sự thật, khu mộ hoang này cũng chưa hẳn bị bọn chồn hoang quấy nhiễu,
chỉ là tình hình đang gặp trước mắt quả thực quá sức quái dị, nhưng thật
khó có thể dùng lý lẽ thông thường để phán đoán. Cho dù Tư Mã Khôi lý
trí cứng rắn, lại giỏi tùy cơ ứng biến, nhưng rốt cục cậu ta tuổi vẫn còn
trẻ, kiến thức còn nông cạn nên lúc này khó tránh khỏi cảm giác bất lực.
Lúc này, Tư Mã Khôi lại thấy ánh sáng của chiếc đèn dầu đang
cầm trên tay mỗi lúc một trở nên yếu ớt, như báo hiệu sắp sửa tắt hẳn,
trong lòng cậu chợt dội lên cảm giác không lành. Cậu nói với La Đại Hải
và Hạ Cần: “Chắc chắn chúng ta bị lạc đường rồi, chỉ sợ không dễ thoát
ra khỏi nơi này, dầu trong đèn cũng chẳng còn lại là bao, xem chừng
không thể duy trì được lâu nữa. Người xưa thường nói ‘đèn tắt ma tìm
đến’, nếu chúng ta muốn bảo toàn mạng sống, bắt buộc phải nhanh
chóng tìm ra cách thoát khỏi đây. Nếu không đợi thêm chút nữa, khi ánh
đèn hoàn toàn tắt hẳn, trước mắt tối thui thui, thì càng chẳng có cơ hội
thoát thân đâu.”
La Đại Hải bất lực đáp: “Tớ coi như hết sạch chiêu rồi, thường
ngày toàn thằng ôn con nhà cậu nghĩ ra bao nhiêu quỷ kế, theo cậu bây
giờ chúng ta nên làm thế nào?”