ngoài sức tưởng tượng, uống vào ngọt mát thanh khiết, trong những ngày
hạn hán thiếu nước, dân du mục bản địa chẳng quản đường xá xa xôi vất
vả, vẫn đến đây lấy nước.
Từ nơi cao nhất trên nóc trạm bơm số 9, nơi có cắm một lá cờ đỏ,
vươn tầm mắt nhìn về hướng nam sẽ những dãy núi trọc trải dài đến tận
chân trời, và màu tuyết trắng chấm phá trên những ngọn núi cao. về
hướng bắc sa mạc Kumtag rộng mênh mông vô tận, phía đông toàn là bãi
hoang sa mạc, địa mạo xen kẽ phức hợp theo chiều sâu bao gồm sa mạc,
hoang mạc, câu cốc, hồ muối. Tên cổ của dải địa mạo này là Hắc Long
Đôi, hay còn gọi Đại Sa Bản. Khu vực này quanh năm bị gió lạnh miền
bắc sa mạc hoành hành, thiên tai liên tục xảy ra, nên trong vòng vài trăm
cây số không hề tồn tại bất kỳ dấu tích nào của sự sống. Ngay từ thời
Hán Đường xa xưa, người ta chỉ có thể sử dụng lạc đà làm phương tiện
di chuyển chủ yếu, và khó có thể đi xuyên qua biển cát tử thần rộng
mênh mông đó. Bởi thế từ trước đến nay con đường ấy được coi là con
đường kinh hoàng, không ai dám lui tới. Trong ‘Đường thư’
, người
xưa còn gọi nó là “vùng đất gió độc quỷ ác”.
Trên đường đến Tân Cương, Tư Mã Khôi từng nhiều lần hỏi bác
Nông địa cầu về những chuyện có liên quan đến thành cổ của vua Chăm
Pa và Nấm mồ xanh, nhưng giáo sư luôn luôn né tránh trả lời. Sau khi
các thành viên khác đều tới Nông trường khai hoang số 34, giáo sư bèn
bảo mọi người tập trung ở trạm bơm số 9 để họp bàn bí mật.
Cấp dưới của giáo sư chỉ có bốn người, ngoài Tư Mã Khôi và Hải
ngọng ra, còn có đội trưởng liên lạc phụ trach nối máy điện đàm không
dây, tên là Lưu Giang Hà. Anh ta là một quân nhân trẻ tuổi mắt to mày
rậm, vốn là trẻ mồ côi, con của một liệt sĩ thuộc Lữ đoàn 359 tiến quân
vào Tân Cương, sau đó được cặp vợ chồng trong đội lạc đà nhận nuôi
dưỡng và mang về Baxkorgan. Từ nhỏ anh ta đã cùng cha mẹ nuôi đến
khu du mục Ba Châu, Mông Cổ cắt lông cừu kiếm sống. Anh ta cũng
biết cưỡi ngựa săn bắn, giàu kinh nghiệm hành quân trên sa mac và hiểu
rất rõ về địa hình và khí hậu ở khu phụ cận sa mạc Kumtag.