xong. Anh không hề lo việc bị nhốt đến chết trong núi Âm Sơn, mà
là không thể xác định được đối phương thực hư thế nào.
Cao Tư Dương tiến sát gần, nhỏ giọng nói với Tư Mã Khôi:
“Bây giờ hắn cách chúng ta một vách tường, chẳng ai làm gì được
ai, chi bằng mình cứ đẩy pho tượng ra theo lời hắn, đợi khi xuống
đến đáy vực, lo gì không có cơ hội tóm cổ hắn”.
Tư Mã Khôi nhíu mày, rồi lắc đầu không đồng ý, anh thầm
nghĩ: cô chưa bao giờ tiếp xúc với Nấm mồ xanh, nên không biết
tâm địa hắn thâm hiểm, ác độc đến mức nào đâu. Làm gì có chuyện
hắn tốt bụng chỉ điểm đường sống cho chúng ta? Ngoài ra, chắc
chắn đối phương biết tôi sẽ không tin mấy lời quỷ quái của hắn, và
không biết hắn có cố ý bày kế “nghi binh” để khiến hội mình
không dám chạm vào bức tượng không đầu đó không?
Tư Mã Khôi nghĩ đến đây, thì quay sang nhìn Thắng Hương
Lân, nhưng nét mặt Thắng Hương Lân cũng nghi hoặc không kém,
cô nhè nhẹ lắc đầu, ra hiệu không thể đoán được thực hư.
Tình hình bây giờ không khác gì trong tay Nấm mồ xanh có
một đồng xu với hai mặt sấp ngửa, trong đó có một mặt khi tung sẽ
ngửa lên; trong lòng Nấm mồ xanh biết rõ mặt nào sẽ ngửa, đồng
thời hắn cũng nói với mọi người kết quả, nhưng không rõ kết quả
đó là thật hay giả. Trước khi hắn xòe bàn tay ra, thì không ai có thể
xác định đồng xu sấp ngửa thế nào.
Nấm mồ xanh thấy mọi người vẫn do dự không quyêt, hắn lại
tiếp tục bồi thêm đòn tâm lý, nào là bí mật dưới vực sâu và trên
tấm bia cổ Vũ Vương kinh thiên động địa ra sao, nào là kết cục bị
nhốt dưới núi Âm Sơn sẽ bi thảm, khủng khiếp đến mức nào.
Tư Mã Khôi nghe đến đây thì bỗng cười nhạt, mọi người giật
mình, lòng thầm kinh hãi: “Tình thế đang lúc nước sôi lửa bỏng,
cậu ta dở hâm hay sao mà đột nhiên lại cười nhăn nhở thế nhỉ?”
Nấm mồ xanh cũng bất ngờ: “Ngươi… ngươi có định đẩy bức
tượng đó hay không?”