đến Tây Âu sau này, nhất là đến “Trường phái Frankfurt” - vào năm
1948, đã phê phán kịch liệt tác phẩm vừa mới công bố của Hamvas:
Cuộc cách mạng trong nghệ thuật - Trường phái trừu tượng và siêu
thực ở Hungary. Hệ quả của sự phê phán này là Hamvas bị cấm công
bố tác phẩm, mất nghề thủ thư, và các thành viên thuộc “trường phái
Âu châu” theo phái trừu tượng và siêu thực cũng bị cấm triển lãm tác
phẩm, bắt đầu thời kì khó khăn kéo dài đối với Hamvas mãi cho đến
khi ông qua đời.
Từ 1948 đến 1951, Hamvas lui về làm vườn ở Szentendre, một
thành phố nhỏ gần Budapest; từ 7.1951, làm thủ kho trong một xí
nghiệp cách Budapest hơn trăm cây số. Rồi từ 1954 đến 1962, ông làm
thợ phụ ở phía đông Hungary. Trong lao động vất vả giữa sự ồn ào trần
tục, Hamvas dành từng phút giây rảnh rỗi để âm thầm phiên dịch kinh
Upanishaden, các tác phẩm thiền học, huyền học Tây Tạng hay kinh
khải huyền Henoch. Mỗi lần về nhà, ông lại mang theo sách, và giấu
kín những luận văn, tiểu thuyết và các tác phẩm triết học đã biên soạn.
Năm 1964, ông được nghỉ hưu, nhưng vẫn không được công bố tác
phẩm. Hamvas qua đời ngày 7.11.1968 trong cảnh âm thầm. Bản thảo
của ông được chuyền tay dưới dạng bản sao. Từ những năm 1970, ngày
càng nhiều người biết đến tên tuổi ông, kể cả những người chưa được
đọc tác phẩm của ông. Trong thập kỉ 1980, vài tác phẩm lẻ tẻ của ông
được công bố. Năm 1985, tiểu thuyết Karnaval dày hơn nghìn trang
của ông được in dưới dạng bị kiểm duyệt, vẽ nên bức tranh toàn cảnh
thật bi tráng về thế kỉ 20. Từ những năm 1990, trong bối cảnh chính trị
mới mẻ, di cảo khổng lồ của ông được đưa vào kế hoạch xuất bản toàn
bộ, quá trình xuất bản còn kéo dài đến ngày nay. Một số tác phẩm của
ông đã được dịch sang tiếng Đức, Pháp, Ý... và công việc còn đang tiếp
tục.
Từ đâu Hamvas Béla có được nghị lực mạnh mẽ để biên soạn và
sáng tác như thế trong nghịch cảnh? Từ đâu Hamvas Béla có được sự
“tĩnh tâm” để âm thầm theo đuổi “sứ mệnh tinh thần” ông tự đặt ra cho
mình? Hãy thử dõi theo hành trình tinh thần của ông từ buổi ban đầu.