con người của lời nói, hoặc của chữ đã viết. Hãn hữu là triết gia
hoặc nhà bác học; phần lớn họ là nhà thần học hoặc nhà thơ, hoặc
nghệ sĩ.
3. Trực giác thần bí
Trực giác thần bí nằm trong hình dạng lịch sử của sự tỉnh táo cổ
(zaéman). Gần như không bao giờ có thể thấy trực giác thần bí
bằng mắt và riêng biệt; phần lớn chỉ lĩnh hội được nó ở vài điểm
này nọ. Trong khoa học và triết học nó gần như vắng bóng. Lĩnh
vực đặc thù của trực giác thần bí: tôn giáo, thần học và nghệ thuật.
Cần phân loại như trên bởi vì rất cần vạch ranh giới xác định đối
với những hiện tượng song song của lịch sử. Cần phân biệt: khoa học
với tổng hợp cổ; người thường với thiên tài; óc duy khoa học và trực
giác thần bí. Cả khoa học, cả người thường lẫn óc duy khoa học đều
không thức tỉnh và không thể thức tỉnh, và như vậy đều đứng ngoài
vòng truyền thống, nếu như có thể trụ nổi ngoài truyền thống.
2.
Thể tổng hợp truyền thống cổ là hệ thống kí hiệu siêu hình học
phổ quát, giữa những kiến thức mới như lí thuyết thần số học
(aritmologia), chiêm tinh học, Kinh Dịch, đạo Lão. Ở một vài dân tộc
cổ từng có một thể thống nhất duy nhất; ví dụ đồng nghĩa với dân
Chaldeans là chiêm tinh học, hay việc dạy mật khải (Hermés
Trismegistos) là của dân Ai Cập.
Nhưng cũng có dân tộc trong bản thân nó chứa nhiều khuynh
hướng tinh thần, ví dụ ở Trung Quốc cạnh đạo Lão có đạo Khổng; ở Ấn
Độ có Sankhja và Buddha; ở Tây Tạng có Bön và đạo Phật; Có những
nơi hai nguồn tôn giáo hòa vào làm một, ví dụ ở Irán có Mitra và Ahura
Mazda, ở Hi Lạp là Orpheus và Pythagoras, muộn hơn nữa là Platon.