6.
Hình thức điểm giữa một lần nữa bị tách đôi thành triết học và khoa
học. Triết học thừa hưởng gia sản của đẳng cấp tinh thần, còn khoa học
thừa hưởng gia sản của đẳng cấp cầm quyền.
Triết học luôn là lí thuyết và khoa học luôn là thực hành. Ý tưởng
(idea) và thực hành (praxis). Triết học không thể cùng với khoa học và
khoa học cũng không thể cùng với triết học, không thể thiếu triết học,
bởi hình thức sự sống bị gãy ở nơi sự thống nhất nhạy cảm nhất.
Triết học thiếu sự định hướng phổ quát muốn hiện thực hóa hiện
sinh thấu suốt minh bạch, khoa học muốn hiện thực hóa sự định hướng
phổ quát nhưng lại thiếu một hiện sinh thấu suốt.
Thế là triết học trở thành tùy tiện còn khoa học rơi vào sự vô nghĩa
và chủ nghĩa ma quỷ. Ví dụ điển hình nhất của nó là chiến lược nghiên
cứu sự sống và nguồn gốc con người, được xây dựng trên hai cơ sở:
sinh vật học và chủ nghĩa cơ giới (masinizmus).
7.
Mức độ đáng tin cậy của truyền thống là lời tuyên bố. Mức độ này
tuyệt đối. Lời tuyên bố trực tiếp. Trong lời tuyên bố sự thật mở ra
không cần chứng minh, bởi nó vượt quá cả cái cần dẫn chứng.
Lời tuyên bố là sự nhận thức đời sống lớn hơn cả đời sống. Sự
chân thực của nó ngoài truyền thống ra chỉ khoa học có thể tạo dựng.
Mức độ đáng tin cậy của khoa học là tính chính xác. Tính chính xác
được hình thành từ cơ sở của lời tuyên bố và hình mẫu của nó, nhưng
tính chính xác của lời tuyên bố chưa bao giờ mang tính chất sự vật mà
là cảm xúc được biểu lộ.
Mức độ đáng tin cậy của truyền thống và khoa học về cơ bản
không thể phân biệt bởi biểu cảm của chúng khác hẳn nhau. Khoa học
không có sự thật, chỉ thuần túy có hiện thực của nó (cái gọi là các nhân
tố), và bởi vậy khoa học chính xác thiếu sự thật của hiện thực. Có nghĩa