như thế nào và làm gì trong sự tồn tại chắc chắn của Thượng Đế”.
“Người không kháng cự, không giận ai, không coi thường ai, không tự
bảo vệ quyền lợi của mình, không phủ nhận gì hết, cả nhà nước, cả
chiến tranh, cả công việc, cả xã hội, cả cộng đồng”.
Đời sống không phải là nơi con người hiện sinh mà là nơi có hiện
thực, có Thượng Đế. Người thật sự “có” - người ta gọi là Thượng Đế.
50.
Trong truyền thống Do Thái phần gần gũi nhất khi nói về Chúa Jezus
chính là Thánh Vịnh. Trong thánh vịnh rất ít lời tuyên bố không đề cập
đến mục đích, không sử dụng, trích dẫn các dòng, các từ ngữ từ đó.
Một trong những từ quan trọng nhất của thánh vịnh là heszed. Từ này
thiếu vắng những nghĩa bóng sâu sắc hơn nhưng ứng với từ kharisz của
Hi Lạp và gratia của Latin và trong những nét chính hoàn toàn phù
hợp.
Trong các ngôn ngữ dân tộc châu Âu không có từ tương tự. Người
ta thường dịch là ân sủng, rất vô nghĩa và thô kệch, giả dối. Heszed là
một thứ quyền lực không đo nổi, một thứ không thể biểu lộ bằng cách
nào khác ngoài sự dịu dàng. Ân sủng thực ra là một sự nghiêm khắc đã
mềm đi, là mức độ dịu xuống của sự nghiêm khắc giữa kẻ bị kết tội và
kẻ xử án. Trong từ heszed không có nghĩa này, trái lại nó mang ý nghĩa
niềm vui thì đúng hơn.
Lời đón mừng Do Thái, như Thánh Phao lô đã sử dụng: heszed va-
salom - tình thương yêu và hòa bình. Lắm lúc đây là sự hân hoan, đôi
khi là phước lành, sự đảm bảo, sự ngây ngất, sự gắn bó trên cả nó là thế
gian ngập tràn heszed, hay là nỗi dịu dàng đầy ắp tình yêu thương.
Nhưng heszed như kharisz và gratia, còn có nghĩa là sự ân cần và
dễ thương. Trong đó có cả nụ cười và sự vuốt ve, và nếu pneuma tesz
kharitosz (ruah neddibbah) gắn bó với con người, nó không đủ khả
năng để chịu đựng sự bất hạnh, sự nhiễu nhương, sự phân vân và mờ