đất, tiếng hét kinh hoàng tràn ngập màng tai. Một tên lính Nam Chiếu vừa
nhìn thấy tôi liền nhe răng cười đi tới. Tôi vung tay phải về phía người đó,
hắn hét lên rồi ngã ra. Nhân lúc mấy tên lính khác còn đang ngơ ngác, tôi
nhảy lên Ô Lạp, phi như bay về Tây Phong Uyển.
Về tới gần Tây Phong Uyển đã thấy xác của Thất tinh hạc ngổn ngang
bên bờ hồ Mạc Sầu, thân cắm đầy tên. Hơn mười xác chết binh lính Nam
Chiếu nổi phềnh trên mặt nước. Hồ nước vốn trong suốt đã bị máu nhuộm
đỏ, nước im lặng chảy, tỏa ra mùi máu tanh gay mũi. Tiếng đánh nhau từ
vườn truyền ra, tôi gọi to: “Tố Huy, Tam nương.” Vừa vọt vào Tây Phong
Uyển đã thấy hai thị vệ mặt lạnh đang chiến đấu với quân Nam Chiếu, Lỗ
Nguyên dùng cung nỏ đã cải tiến bắn vào quân Nam Chiếu, trong đôi mắt
đầy tơ máu có chút điên cuồng không gì sánh được.
Ngoài dự liệu của tôi, Tạ tam nương đang xoay hai chiếc búa, mặt
dính đầy máu, lạnh lùng chém quân địch. Rắc một cái, quân nam chiếu hộc
máu ngã ra đất như đống củi đốt. Thân hình luôn mập mạp của bà bỗng lả
lướt dị thường, nhanh nhẹn chuyển động. Bà nhìn thấy tôi thì hơi chấn
động, điên cuồng hô: “Vi Hổ, Mộc cô nương về rồi, mau dẫn nàng và Tố
Huy đi đi.”
Rất nhiều lính Nam Chiếu vọt về phía tôi nhưng lập tức đã có hai bóng
người bay qua, múa một đường kiếm chặn chúng lại. Là Tố Huy và Vi Hổ
người đầy máu. Tố Huy thở hổn hển, khuôn mặt nhỏ nhắn vô cùng u ám,
vừa khua kiếm vừa mừng rỡ nói: “Mộc nha đầu, cô về rồi, Tề Phóng đi tìm
cô, đến giờ vẫn chưa về.”
Tôi nhìn về phía Vi Hổ thì mới kinh hãi phát hiện ra tay trái của anh ta
đã bị chặt đứt, máu chảy không ngừng, máu trên người anh ta chính là từ
chỗ cụt tay này. Vi Hổ bảo Tố Huy nhảy lên Ô Lạp của tôi, sau đó đi trước
mở đường, dẫn chúng tôi chạy vội tới Thưởng Tâm các. Anh ta đá văng
cửa lớn, bảo chúng tôi bước vào rồi cắn răng khóa chặt cửa phòng. Anh ta
bước tới trước bức vẽ Tạ phu nhân ở điện thờ, di động cơ quan đằng sau