Tư thị lậu thất, duy ngô đức hinh.
Ðài ngân thượng giai lục, thảo sắc nhập liêm thanh.
Ðàm tiếu hữu hồng nho, vãng lai vô bạch đinh.
Khả dĩ điều tố cầm, duyệt Kim kinh.
Vô ty trúc chi loạn nhĩ, vô án độc chi lao hình.
Nam Dương Gia Cát lư, Tây Thục Tử Vân đình.
Khổng Tử vân: “Hà lậu chi hữu?”
Dịch thơ: (nguồn thivien.net)
Núi dẫu không cao, có tiên nên danh
Sông dẫu không sâu, có rồng nên linh
Căn nhà thô lậu, đức ta tỏa ngời
Rêu phủ giăng thềm biếc, sắc cỏ chiếu rèm xanh
Nói cười chỉ nho gia, qua lại chẳng kẻ phàm
Lại gảy mấy điệu đàn, đọc thánh kinh
Không âm thanh chi phiền tai, chẳng đơn từ gì nhọc mình
Nam Dương lều Gia Cát, Tây Thục Tử Vân đình
Khổng Tử rằng: “Thô lậu nơi nao?”
(8) bồ liễu: Bồ là cỏ bồ ta gọi là cói, liễu là cây liễu. Cố Duyệt đời Tấn
cùng tuổi với Giản Văn đế mà đầu lại bạc trước. Giản Văn hỏi:”Tại sao bác