Ông dừng lại và hát i a một làn điệu chèo như để thư giãn. Sau đó đột
ngột tiếp vào câu chuyện:
- Nhưng chả có cứt gì cả. Cứt cũng bói không ra. Tất cả chỉ là bánh vẽ.
Họ chỉ cần một thứ duy nhất ở chúng tôi, đó là đất. Họ không cần gì hơn
ngoài mấy trăm mẫu đất. Mà toàn loại bờ xôi, ruộng mật ngay cả nuôi chim
trời cũng không hết thóc. Cứ ra đồng là có cá mang về nhắm rượu. Giờ thì
anh thấy đấy, đất chết bởi váng dầu, xỉ than và bụi sắt, chẳng cây con nào
xung quanh bán kính vài cây số có thể sống bình thường được trong khi
nhà máy thì nghe nói sắp bỏ hoang vì thua lỗ. Toàn đồ phế thải mua lại của
Tàu. Nó chạy được vài năm thì đấy, nằm đắp chiếu, chờ người ta đem chôn.
Trong khi đó những người phải di dời thì thành dân phát vãng, con cái vô
nghề nghiệp, làm đĩ, làm cướp, ra phố ngủ vật ngủ vạ chờ vét cống, đào mả
thuê, dọn đồ phế thải độ nhật qua ngày. Nhiều người chết vì uất ức, bệnh
tật.
Việt như thấy có một dòng điện quất dọc sống lưng. Chả lẽ cơ sự lại
như vậy? Liệu khi lập dự án nhà máy thép, những con thú điện tử có lường
tới thảm họa như ông Quang vừa kể? Kinh hoàng nhất là cái thông tin nhà
máy sắp bỏ hoang. Bố anh, Mr. N. can dự đến mức nào trong cái dự án
này? Còn những bí ẩn gì xung quanh con “quái vật” kim loại kia? Đó là
những câu hỏi mà thật lòng Việt vừa muốn, vừa không muốn nghe trả lời.
Nó quá sức chịu đựng của anh.
- Nghe bác nói thì cái nhà máy thép ấy chỉ toàn gây tai họa, chả lẽ nó
không đem lại chút lợi lộc gì cho bà con nông dân?
- Cộng vào, trừ đi, chia ra... thì chúng tôi chỉ toàn mất. Bây giờ thì mất
hết. Nhưng sao bỗng dưng anh lại quan tâm đến những chuyện đau lòng
này? Tôi đang cố để quên nó đi, để sống yên ổn nốt quãng đời còn lại. Giờ
tôi chỉ còn biết chờ nhà ai có đám, cả hiếu lẫn hỷ để đến hát kiếm cơm.
Ruộng đất mất sạch, sót lại thửa nào thì cũng không thể cấy trồng, anh bảo
còn biết làm gì.