I. BELA
T
ôi tới Tiflix
bằng xe trạm. Hành lý trên xe chỉ có mỗi chiếc va ly nhỏ
mà phân nửa là chứa những tập bút ký về cuộc hành trình qua xứ Gruzi.
Thật may cho các bạn là phần lớn những tập ký ấy đã bị mất, nhưng lại
may cho tôi là đồ đạc trong va ly thì vẫn còn nguyên.
Tôi tới thung lũng Kôisau thì mặt trời cũng bắt đầu lặn xuống sau đỉnh
núi phủ tuyết. Lão đánh xe người Ôxetin rán hết sức hát thật to và hối hả ra
roi thúc ngựa để kịp lên núi Kôisau trước khi trời tối. Thung lũng là một
nơi danh thắng tuyệt vời. Bốn bể núi non hiểm trở, những vách đá màu
hồng, treo lơ lửng những sợi trường xuân xanh xanh, điểm xuyết những bụi
tiêu huyền phương Đông; những bờ dốc đất vàng, chằng chịt những mương
xói, và cao cao trên đỉnh núi là một dải tuyết vàng, phía dưới là dòng sông
Aragva, sau khi hội lưu với một dòng suối nhỏ không tên đang ồn ã vọt ra
khỏi hẻm đá tối đen, con sông trải dài ra như một sợi chỉ bạc, óng ánh như
vảy rắn.
Ðến chân núi Kôisau, chúng tôi dừng lại bên một cái quán nhỏ. Trong
quán có khoảng hai chục người Gruzi và dân miền núi đang chuyện trò rôm
rả; gần đó có đàn lạc đà nghỉ đêm. Tôi phải dùng bò để kéo xe mới mong
vượt nổi cái ngọn núi đáng nguyền rủa này, vì trời đã sang thu, và đã có
những lớp băng mỏng, mà con đường núi này thì dài tới gần hai dặm
có ít đâu.
Không còn cách nào khác, tôi đành phải thuê sáu con bò và mấy người
Ôxetin. Một người vác chiếc va ly còn những người kia thì hầu như chỉ hò
hét chứ không hề động tay vào xe để hỗ trợ lũ bò.
Đằng sau xe tôi là một chiếc xe khác có bốn con bò kéo, chiếc xe chở
đầy ắp mà sao lại đi thong dong chả có gì khó nhọc. Điều đó làm tôi ngạc
nhiên. Người chủ bước theo sau, miệng ngậm chiếc tẩu nhỏ kiểu Kabarđin
bịt bạc. Ông ta mặc quần áo sĩ quan, không cầu vai và đội chiếc mũ lông