những bí ẩn của linh hồn; hướng thứ tư là sự trực tiếp trong cộng đồng. Và
đời sống người cũng đã bị khóa lại theo đúng những hướng trên. Đời sống
không nhìn thấy quá thế giới của các giác quan; đời sống đánh mất sự nhạy
cảm hướng về thế giới siêu nhiên; và chính vì thế nó buộc phải phủ nhận thế
giới siêu nhiên. Và vì buộc phải phủ nhận, nó không bao giờ có ý tưởng về
chân hiện thực, về sự sống nữa.
Đại đa số nhân loại của thời kì lịch sử (Hamvas Béla đặt tên thời gian bắt
đầu từ khi có Công nguyên kéo dài đến tận ngày nay là thời kì lịch sử - ND)
không bao giờ đối diện với hiện thực. Cái họ nhìn thấy, họ học, cái họ chống
lại, họ muốn, cái để họ sống, chết đều là những sự tưởng tượng riêng của họ,
cùng lắm là giấc mộng tập thể thời đại của họ.
Tòa nhà tinh thần họ ẩn nấp trong đó là thế giới quan của họ nhưng là
những thế giới riêng biệt mà Heracleitos đã nói: trong đó mọi người thiu
thiu ngủ. Cái thế giới quan này không là gì khác ngoài chủ nghĩa cá nhân,
hay dùng từ khác, là sự tưởng tượng của cái TÔI sống trong một hiện thực
đã suy thoái. Sự tưởng tượng này chỉ liên quan với hiện thực ở một vài
điểm. Cái TÔI cá nhân ở đây, giữa thế giới quan của nó, sống một đời sống
ngủ thiu thiu. Niềm tin của cá nhân này là niềm tin của cái TÔI: sự kiêu
ngạo; bảo bối của nó: sự ích kỉ; nỗi sợ hãi của nó: sự lo lắng.
Đời sống không thấy quá thế giới tự nhiên và không có sự siêu hình. Và
cũng không thấy quá cả đời sống, sự nhận biết về thế giới (âm) bên kia của
nó thật mơ hồ, cái mệnh danh là suy thoái thành đức tin. Đức tin này phần
lớn - nhất là đối với những kẻ (được cho là) giác ngộ là sự hổ thẹn, là sự mê
tín thô thiển.
Cần phải vứt bỏ điều này bởi nỗi sợ hãi thế giới (âm) bên kia trong một ý
nghĩa nào đấy có tác dụng tốt và kìm hãm nỗi đam mê. Cuộc sống hướng về
phía thế giới bên kia của nhân loại trong những thời đại gần đây đã bị khóa
kín một cách huyền bí. Sự khóa kín này đạt tới đỉnh điểm khi người ta thử
dẫn dắt thế giới của linh hồn quay lại hoạt động của vật chất.
5.