và chúng tôi nằm trong một căn phòng ánh sáng mờ ảo hình bán nguyệt,
cầu kinh và giật lùi và gắng gượng nhớ lại khoảnh khắc chào đời của mình
giống như đang cố nhớ lại số điện thoại của một ai đó. Tôi cảm thấy mình
giống một thằng ngốc. Nhưng tôi thích lại được ở bên cạnh Anouk, nên lần
đó tôi cứ làm theo, và từng ngày sau đó, khi chúng tôi ngồi khoanh chân
trong công viên và trên bãi biển, lặp đi lặp lại các câu thần chú như những
kẻ mắc chứng rối loạn ám ảnh cưỡng chế. Trong những tuần đó tôi chẳng
làm gì ngoài việc nhìn mình hít thở và cố gắng tịnh tâm, nhưng tâm tôi như
một con thuyền thủng đáy; mỗi lần tôi tát ra ngoài một xô suy nghĩ, những
suy nghĩ mới lại đổ vào. Và khi tôi nghĩ có lẽ đã đạt được sự hư không ở
cấp nhẹ nhất, thì tôi lại đâm ra sợ hãi. Sự hư không của tôi không vui vẻ,
mà có phần hiểm ác. Tiếng thở của tôi mang mầm mống tai họa. Tư thế tôi
trông như đóng kịch. Đôi khi tôi nhắm mắt lại chỉ để nhìn thấy khuôn mặt
lạ đáng sợ đó, hoặc giả tôi không thấy gì nhưng lại nghe thấy tiếng của bố
tôi, yếu ớt và nghèn nghẹt, tựa như ông đang nói chuyện với tôi từ trong
một cái hộp. Rõ ràng thiền định không thể giúp tôi. Không gì có thể giúp
được tôi. Tôi nằm ngoài tầm cứu giúp, và kể cả một cơn mưa nắng bất ngờ
cũng không thể cứu vãn được tôi. Thật sự, tôi bắt đầu tự hỏi tôi đã nhìn thấy
gì trong thiên nhiên suốt thời gian tôi sống trong mê cung. Sự việc bỗng
nhiên trở nên kinh khủng và phô trương, và tôi tự hỏi liệu có phải là báng
bổ không khi nói với Chúa rằng cầu vồng là thứ vô vị.
Tôi đã ở trong trạng thái tinh thần đó khi bố, Eddie, và Caroline xuất hiện ở
khu chung cư của tôi và bấm còi cho đến khi tôi đi xuống đường. Chiếc xe
cứ nằm đó, nổ máy rì rì. Tôi đi đến cửa xe. Tất cả họ đều đeo kính râm,
giống như đang cùng nhau ngất ngây sau một đêm say bét nhè.
“Họ sẽ đến bắt bố vào ngày mai,” bố nói. “Bọn bố sẽ chạy trốn.”
“Bố sẽ không bao giờ trốn được.”
“Để xem. Dù sao thì, bọn bố chỉ đến để chào từ biệt,” bố nói.
Eddie lắc đầu. “Cậu nên đi với chúng tôi.”