giác sông Seine đang chảy cho một mình tôi, để chào mừng tôi. Những
hàng dương liễu dưới sông thì thầm rằng chúng đã luôn chờ tôi tới.
Tôi đừng đó không biết bao lâu mà tim vẫn đập thình thịch và không
ngừng lẩm bẩm “Xin chào, xin chào, tôi đây, tôi đây!”
Thật không thể tin được,
Nhưng sau cùng, những thói quen sống cũng tóm được tôi và chúng bảo
tôi phải nhanh chân tìm chỗ ăn tối trước khi các nhà hàng đóng cửa và tôi
phải đi ngủ đói. Vậy là tôi băng ngược trở lại bên kia, đi theo con đường
dọc sông. Chỉ cách vài bước chân, tòa nhà Hôtel de Ville
[20]
sừng sững hiện
ra. Trước quảng trường nhỏ của Hôtel de Ville, tôi nhìn sang bên trái và lại
thấy một cái tháp khả nghi mà tôi đã thấy ở cửa sổ. Tôi rất muốn tới xem có
phải Nhà thờ Đức Bà không; nhưng rồi tự nhủ rằng tối hôm nay tôi đã thấy
quá nhiều. Vậy là tôi rẽ vào một quán Nhật, gọi bữa tối đầu tiên ở Paris
gồm có sáu miếng sushi cá hồi và nấm xào thịt nướng với pho mát. Sau đó,
tôi đi bộ trở lại khách sạn.
[20] Tòa Thị chính Paris.
Đã gần nửa đêm nhưng các restaurant dọc đường về và cả hai cái
restaurant ở khoảng sân cạnh khách sạn vẫn đông người ngồi ăn như thể
buổi tối chỉ mới bắt đầu và Paris sẽ không bao giờ đi ngủ. Trong phòng
khách sạn, người bạn cùng phòng đầu tiên của tôi đã tới: một cô gái trọc
đầu đang nằm ngủ sấp mặt trên giường tầng phía đối diện tôi: chăn đắp
ngang lưng, chỉ để hở hai cánh tay và phần gáy có rất nhiều hình xăm. Tôi
rửa mặt, đánh răng, thay quần áo, rồi xuống nhà. Lobby dưới tầng một tối
đèn, chỉ có một người lễ tân da đen đang ngủ ngồi trên ghế bành sau quầy
(và ngáy rất to). Mặc dù tôi đi rất khẽ, anh ta vẫn tỉnh dậy “bon soir”. Tôi
không nhịn được mà hỏi cái tháp chuông… cái tháp chuông phía bên kia
sông Senie…, anh ta nói “Oui, the Notre Dame
[21]
”, rồi cười toe toét khi
thấy tôi nhảy cẫng lên.