nhìn, hơn nữa, lính lại không được phép bịt mặt như phạm. Một công việc
cũng chẳng thú vị gì...
Khi nào trời ấm, trong đoàn tiếng nói chuyện nổi lên dù lính áp tải có
quát tháo mấy cũng mặc. Nhưng hôm nay ai cũng cắm đầu bước, cố giấu
mình vào lưng người đằng trước và chìm trong những ý nghĩ của mình.
Ý nghĩ của tù nhân cũng không được tự do mà cứ quay về một chỗ:
liệu chúng có sờ thấy khẩu phần bánh mì mình giấu trong đệm hay không?
Tối nay liệu chúng có cho mình vào danh sách người bệnh không? Liệu
ông trung tá có bị tống vào nhà đá không? Sezar lấy đâu ra chiếc sơ mi ấm
đó? Chắc lại đổi chác đồ của mình lấy nó ở nhà kho, chứ còn ở đâu ra nữa?
Hôm nay Sukhov vẫn thấy đói, có lẽ vì anh ăn sáng không có bánh mì,
và ăn toàn đồ lạnh chăng. Và để cái bụng khỏi rên rỉ đòi ăn, anh thôi không
nghĩ tới trại giam nữa, mà nghĩ tới bức thư sắp tới sẽ gửi về nhà.
Đoàn người đi qua xưởng làm đồ mộc do tù nhân dựng lên, qua khu
nhà ở (cũng do tù nhân xây dựng, song lại dành cho người tự do ở), qua câu
lạc bộ mới (cũng do tù làm hết, từ đổ móng đến trang trí trên tường, nhưng
phim chiếu lại để cho người tự do xem), bước ra ngoài thảo nguyên, đối
diện với gió và bình minh mỗi lúc một đỏ rực. Cả một vùng tuyết trắng
mênh mông, trơ trọi, không có lấy một cái cây.
Một năm mới bắt đầu, năm năm mốt, và ở năm này Sukhov được phép
viết hai thư. Bức cuối cùng anh gửi vào tháng bẩy, nhưng thư trả lời mới
nhận được hồi tháng mười vừa rồi. Còn trại Ust-Izma, nơi anh bị giam
trước đây, lại có quy chế khác, nếu muốn, mỗi tháng có thể viết một lần.
Nhưng có quái gì để mà viết cơ chứ? Khi đó Sukhov cũng không viết
thường xuyên hơn bây giờ.
Anh rời nhà vào ngày hai mươi ba tháng sáu năm bốn mươi mốt. Vào
một sáng chủ nhật, mọi người đi lễ nhà thờ ở Polomi về thông báo rằng
chiến tranh đã nổ ra rồi. Ở Polomi mọi người biết tin qua bưu điện, chứ ở
làng Temgenuva của anh, trước chiến tranh, chả ai có lấy nổi một chiếc