tỏa ra, và tiếng bom chúng thả, nổ ra gầm vang như sấm, lẫn lộn với tiếng
súng đại bác nổ rền, đều đặn.
Các phi đội được lệnh báo động số 2, nghĩa là các phi công không được
ra khỏi phòng máy bay, phải luôn luôn sẵn sàng cất cánh, một khi thấy hỏa
châu bắn lên làm hiệu. Máy bay đậu thành hàng ở bìa rừng cây bulô được
nghi trang bằng lá cây. Từ trong rừng, một luồng gió rừng, và một đàn
muỗi, mà tiếng vo ve bị tiếng súng đại bác át đi, ào tới, hăng say tấn công
nơi mặt, tay và cổ các phi công.
Mêrétxép đã bỏ mũ xuống, và, một tay quơ nhẹ đuổi muỗi, anh đắm
chìm trong một cuộc mơ màng, suy nghĩ, có hương rừng buổi sáng bao phủ
chung quanh. Bên cạnh anh, máy bay của đồng đội cũng được nghi trang
kỹ. Đôi lúc, Pêtơrốp nhảy lên khỏi ghế, leo lên máy bay theo dõi các cuộc
chiến đấu, hay nhìn theo những oanh tạc cơ. Anh nôn nóng muốn bay lên
thử sức lần đầu tiên trong đời mình với kẻ thù thực và xả các luồng súng
dọc ngang nguy hại của mình, không phải tới một trái ba lông nhỏ bằng vải
gió thổi phồng ra, buộc dây cho một chiếc R-5 kéo theo, mà là tới một phi
cơ địch, đã sinh động lại lanh lẹ. Biết đâu, trong máy bay địch, lại chẳng có
co mình như con ốc trong vỏ, chính tên giặc đã thả bom giết chết cô gái
thanh thanh và xinh đẹp nhường ấy đã hiện ra trước mắt anh như một giấc
mộng đẹp.
Mêrétxép chú ý quan sát chiến hữu của mình, nhìn anh ta loăng quăng,
xúc động, và anh nghĩ bụng rằng hai người cũng sắp sỉ nhau: anh kia 19,
mình 23, chớ có chênh nhau chi lắm cho cam. Khác nhau ba, bốn tuổi đâu
có ăn thua gì? Nhưng bên người chiến hữu đó, anh thấy anh thực là già dặn,
cứng rắn và khôn ngoan, quen những cơn thử thách. Trong lúc Pêtơrốp
xoay trở hoài trong buồng cầm máy, xoa tay, cười vẫy chào những chiếc
Iliusin của mình bay qua, thì Mêrétxép ngồi kế êm mình trong ghế bành da
của mình. Anh bình tĩnh. Không có chân, anh bay khó hơn mọi phi công
nào khác, không sao so sánh được, nhưng điều đó không làm cho anh lo
ngại mảy may. Anh tự tin ở mình và tin ở cặp chân mới của mình.