và anh Chí quản lý. Lẽ ra còn thêm anh Để đại đội trưởng và hai trung đội
trưởng trung đội 1 và 2 là Toàn và Xu. Toàn đi viện và Xu đang cùng Để đi
xuống địa bàn điều nghiên, tắc đường chưa lên được. Già nửa đại đội 3,
theo lệnh của tiểu đoàn lên miền Tây củng cố trong đội hình của tiểu đoàn.
Số ấy do Minh, đại đội phó, và Hường, chính trị viên phó đại đội chỉ huy.
Người thứ năm có mặt trong cuộc họp là ông Duy. Ông vừa là chính trị
viên tiểu đoàn, vừa kiêm bí thư đảng ủy. Cơn sốt dứt lúc hai giờ chiều,
nhưng người ông vẫn còn yếu lắm. Quanh cổ ông quấn chiếc khăn dù.
Trong số Đảng viên ngồi đây, ông Duy là người có tuổi đời và tuổi đảng
cao nhất. Trước khi trở thành sĩ quan trường Lục quân, ông đã từng làm bí
thư huyện đoàn. Năm 1963, ông được lệnh nhập ngũ đi học ở Sơn Tây, rồi
đi làm cán bộ chính trị của trường. Mãi tới năm 1966, ông mới dẫn tân binh
vào Nam và ở lại chiến đấu.
So với ông Duy, bốn người còn lại ít tuổi hơn ông nhiều. Kể cả Hồng.
Tuy vậy, Hồng về tiểu đoàn sớm nhất - lúc mới có lệnh của quân khu thành
lập trung đoàn 5, khi ấy còn gọi mật danh "công trường 5”.
Tới năm 1965 - 1966, tiểu đoàn về giải phóng Phú Vang, Phong
Quảng, đơn vị được bổ sung quân, ông Duy đưa về cho tiểu đoàn một đại
đội tân binh mới được huấn luyện ở Thanh Hóa. Giữa năm 1967, để tăng
cường lực lượng mở cuộc tập kích chiến lược Xuân 1968 hai đại đội tân
binh người Hải Phòng, Thái Bình về tăng cường, Tống, Chí nằm trong đợt
quân ấy. Tháng 3 năm 1969, tiểu đoàn nhận tân binh của sư đoàn 330. Hai
đại đội thiếu, toàn người Hải Hưng và Thái Bình. Lúc ấy có Cường. Chỉ hai
trận đánh tập kích thu súng bắt tù binh trên đồi Chổi, mấy chuyến về diệt
tụi bảo an ở La Chữ, Phúc Ổ, hạ một trực thăng, Cường đã được chi bộ đại
đội 3 xét kết nạp Đảng, tặng thưởng huân chương chiến công. Năm người
là bốn thế hệ của một tiểu đoàn trong vòng dăm năm.
Hồng ngồi bó gối trên sạp bắt gặp ánh mắt của ông Duy đang nhìn
mình. Anh cũng như những người đang ngồi đây đều thấu hiểu tình hình