năng lớn về chỉ huy quân sự. Đến nỗi một lần ở Quảng Điền, Duyệt nhảy
lên diễn đàn nói chuyện với thanh niên vùng mới giải phóng, có anh cán bộ
tuyên huấn của trung đoàn xuống công tác đã có ý định rút Duyệt đưa về
làm trợ lý. Tất nhiên là ông Bậu phản đối kịch liệt. Chả ai dại gì để mất một
tài năng như vậy.
Ông Bậu nhiều lần mắng Duyệt không tiếc lời về tội liều mạng khi
bám địch. Mắng như chan tương đổ mẻ để rồi mà thương cậu trung đội
trưởng trinh sát của mình hơn. Duyệt lúc ấy chỉ cười. Đợi thủ trưởng Bậu
(lúc ấy ông Bậu mới là tham mưu trưởng tiểu đoàn) nói cho chán, Duyệt
mới lòi ra bao Pa-man đỏ chót mời ông Bậu hút.
- Mày còn cà phê không Duyệt? - Ông Bậu vỗ vai Duyệt.
- Để em coi thử đã, thủ trưởng thèm cà phê à?
Duyệt có một cái "kho" cơ động ở trong rừng quanh những nơi đơn vị
về đóng quân. Nhiều tay trinh sát "lỏi tỳ" hy vọng mò ra kho bí mật của
Duyệt để khui thuốc lá, cà phê. Nhưng Duyệt còn tỏ ra cao thủ hơn đám
chiến sĩ của mình. Vui vẻ thì ra "kho" lấy về một bao thuốc Ru-by hoặc
Cap-stan chia cho mỗi người một điếu. Cà phê của Mỹ, những gói nhỏ
bằng hai đầu ngón tay, đổ một lúc hàng chục gói, cả đường và cà phê vào
hai chiếc bi đông Mỹ. Cà phê đặc sệt san ra những chiếc bát tráng men
xanh hoặc bát "B52" chia cho cả tiểu đội, trung đội. Không thích thì thôi.
Dù thủ trưởng tiểu đoàn có "nịnh", Duyệt cũng bỏ ngoài tai và nhăn mặt
như một gã đau răng:
- Hết thiệt mà thủ trưởng! Em tiếc chi mấy anh. Cà phê còn mô nữa.
Để bữa nào em sục lên bãi Mỹ kiếm về đã nghe. Nhất định em để phần thủ
trưởng.
Nhưng đến đêm, cả tiểu đội trinh sát chui vào căn hầm nằm ngủ, võng
mắc sát sạt lưng nhau, tầng trên tầng dưới, đùi người nọ gác đùi người kia.