đỉnh cây. Nghe tiếng lá thông rơi vàng trên thảm cỏ lúc hoàng hôn đang tím
lại dưới tán rừng thấp và chỉ còn một chỏm nắng đậu trên tháp chuông nhà
thờ Thiên An. Ngôi nhà thờ ngự trên đỉnh đồi đã vài chục năm. Giấu sau
bức tường loang lổ rêu phủ kia, trong ấy không biết có bao nhiêu cô gái
đồng trinh, lâu lâu mới thấp thoáng bóng vài chiếc mũ trắng, áo trắng đi lại
trong khoảnh vườn thưa hoặc ra giếng múc nước. Hồi chuông cầu nguyện
buổi chiều đặc quánh, quyện lại trong cái không gian u tịch, hoang vắng
của những dãy đồi thông trập trùng.
Cơ sở Huế bị vỡ. Một số sinh viên bị bắt, Duyệt lanh chân chạy thoát
được về Truồi, rồi được móc nối đưa lên xanh. Mấy tháng sau, Duyệt nhận
được tin của người bạn đang công tác ở Thành đoàn Huế: Minh Tuyết đã
nhận lời lấy một giáo sư dạy Việt văn, người Đà Nẵng.
"Cũng phải thôi!" - Duyệt tự an ủi mình. Anh tặc lưỡi, vứt mạnh mẩu
thuốc xuống dòng sông Hai Nhánh. Dòng sông Hương đâu có phẳng lặng
hiền lành. Có chăng chỉ khúc dưới khi gần đổ ra biển. Phía thượng nguồn
Tả Trạch và Hữu Trạch cũng vô số thác ghềnh và đầy hiểm trở. Cái sự êm ả
kia chỉ là sự đánh lừa những kẻ khi chưa đi tới ngọn nguồn của nó. Con
sông còn vậy huống chi là con người?
Duyệt cười một cách cay đắng. Anh muốn nguôi quên nỗi đau của
mình bằng tiếng súng và cũng là một cách tự thể nghiệm con người mình
trong chiến tranh. Tuy vậy, nỗi đau vẫn cứ ngấm ngầm cấu xé tựa như một
chiếc răng sâu, lâu lâu lại tấy đau một lần khiến cho người bị đau mất ăn
mất ngủ. Giữa một tập thể chiến sĩ giải phóng phần đông là người Bắc,
Duyệt dịu xoa nỗi đau của mình bằng những bài hát cách mạng. Chỉ cần
nghe vài lần trên làn sóng điện, anh đã có thể tự mày mò những gam nhạc
trên cây ghi-ta gỗ và hát. Đồng đội bảo anh là con người dễ hòa đồng với
đời người chiến sĩ cách mạng, vô tư, yêu đời và đầy nhiệt huyết của tuổi
trẻ. Trong nhiệm vụ của người lính trinh sát, anh quả cảm, sâu sát, có nhiều
ý kiến sáng tạo trong cách đánh địch. Các cán bộ chỉ huy bảo ở anh có khả