máu, kiểu như lũ rận mà ai cũng biết, vốn thích bọn chó hơn là những chiếc
ổ cứng máy tính.
Đi dọc hành lang tầng trệt trong bóng đêm khiến họ sợ xanh mặt. Phải
tiến lên mà không gây ra một tiếng động nhỏ nào rồi hành động trong
khoảng từ 21h đến 21h30, ba mươi phút, thời gian những người ở tổ dọn dẹp
hoạt động trên các tầng.
Với đèn pin kẹp giữa hai hàm răng, Jo mở cánh cửa tủ mạng, tìm nơi
phù hợp dể kết nối vào máy tính và bắt đầu lướt các ngón tay trên bàn phím.
Anh kiểm tra bộ nhớ của máy chủ, xác định ngày và giờ máy chủ bị xâm
nhập, rồi tìm ra bằng chứng không thể chối cãi rằng một ai đó đã đột nhập
vào phòng máy tính. Kẻ tin tặc chắc đã bị làm phiền và từ đó rơi vào thế bí
vì hẳn ta để lại phần mềm gián điệp ngay trong phòng máy tính. Các đề bài
kiểm tra đã được chuyển từ máy chủ đến một chiếc USB thông qua kết nối
Bluetooth. Jo chế nhạo sự kém cỏi của các nhân viên tin học trong trường vì
đã không phát hiện ra điều đó trước anh.
- Bọn chúng có ít nhất hai người. Một tên ở đây, và một tên bên ngoài,
rất có thể nấp dưới cửa sổ, vì cái này không thể mang đi quá xa, anh thì
thầm và lấy ra tang chứng.
Milly suy ra tên tin tặc chắc chắn đã để lại dấu vần tay; Jo chỉ cần đột
nhập máy chủ của cảnh sát để tìm ra tung tích hắn. Anh nhìn cô, không phải
không ngạc nhiên, mỉm cười với cô, mủi lòng khi thấy cô cho rằng anh có
khả năng làm được những kỳ tích như vậy. Với kế hoạch đơn giản hơn trong
đầu, anh nhét phân mềm gián điệp vào túi, nhìn đồng hồ và nói với cô bạn
đã đến lúc phải rời khỏi hiện trường.
Trên đường về, họ đột ngột phải chui vào phòng làm việc của Milly và
trốn dưới bàn của bà Berlington. Một kỹ thuật viên trong tổ bảo trì thay đổi
kế hoạch thường ngày và mang máy mài đến vệ sinh thảm nhựa hành lang,
khiến họ không thể rời khỏi hiện trường. Hai bạn trẻ, ngồi xổm, cố gắng nín
thở. Nhưng nhiệm vụ trở nên gần như bất khả thi khi Milly lôi từ sau lưng ra
một vật khiến cô vướng víu vùng thắt lưng, và phát hiện ra đó là một chiếc