chóc sẽ được đặt vào nơi bất tử, như câu viết rằng: Tử thần bị nuốt chửng
trong niềm vinh quang...”
Từng lời, từng lời lẽ phi thường đó rót vào đầu Charity đang cúi xuống,
chúng xoa dịu nỗi kinh hoàng của nàng, chinh phục sự náo động của đám
đông, kiềm chế nàng cũng như kiềm chế những sinh vật mê mụ trong cơn
say phía sau lưng nàng. Ngài Miles đọc lời cuối cùng rồi xếp sách lại.
“Có huyệt sẵn sàng rồi chứ?” - ngài hỏi.
Liff Hyatt, đã vào nhà trong khi ngài đọc sách, gật đầu nói: “Rồi ạ!” và
xốc tới bên chiếc nệm. Người đàn ông trẻ trên băng ghế có vẻ như có quan
hệ họ hàng máu mủ với người chết, đứng lên và người sở hữu ống khói
nhập bọn với hắn ta. Ở chính giữa, họ nâng chiếc nệm lên, nhưng động tác
của họ không vững làm áo khoác của ngài Miles phủ trên xác chết rơi
xuống sàn nhà, chường ra cái thi thể nghèo khổ đáng thương vô phương
giúp đỡ. Charity nhặt cái áo rồi phủ lên mẹ mình một lần nữa. Liff mang
cây đèn bão, bà già cầm lấy nó, mở cửa để cho đám người đi qua. Bên
ngoài gió thôi không thổi nữa, trời đêm tối đen như mực và cực kỳ lạnh. Bà
già dẫn đầu, cái đèn lắc lư trong tay và trải rộng trước bà ta là một mảnh
đất đầy cỏ chết và cây dại lá mọc um tùm xung quanh một màu đen mênh
mông.
Ngài Miles nắm cánh tay Charity, họ sánh vai nhau đi trước tấm nệm.
Một lúc lâu bà già cầm đèn dừng lại, và Charity nhìn thấy ánh sáng rọi trên
vai những người khiêng đang cúi mình trên một gò đất trên đó họ đang rẽ
hướng. Ngài Miles thả tay nàng ra và đến bên phía kia của gò đất; và trong
khi những người đàn ông cúi xuống thả tấm nệm vào huyệt, ngài lại bắt đầu
nói:
“Con người được sinh ra bởi người đàn bà nhưng cuộc sống ngắn ngủi
đầy khổ cực. Người đến và cất gánh nặng đi. Ôi, lạy Chúa lòng lành, quyền