SÔNG CÒN KHẮC KHOẢI CÂU
HÒ
L
àng nằm sát rạt bờ sông Bến Hải, ruộng thì xanh, đất thì đỏ. Bây chừ,
cứ tháng sáu là vào mùa tiêu. Tới mùa em qua phụ dì bắc thang ngẩng cổ
hái cả buổi. Dì nói chắc em mắc nợ với đất này rồi, mắc nợ dì với người ở
đây nữa, nên chi bao sự chọn lựa tốt lành mà không ở lại nơi thành phố
ngọt ngào kia, lầm lũi về cái đất nắng gió này làm chi. Mạ cũng nói y
chang dì, mạ nghi có hồn nào đó đang trói em, buộc em cằn cỗi trước tuổi,
cằn cỗi qua ba mươi mà chưa ai ngó ngàng, khiến em khắng khít nơi đây
với những chuyện tủn mủn thời mô tê của dì.
Dì hò hay lắm, giọng dì bắc loa, hò lên phát thanh, vang ra khắp dòng
sông, vang vọng hai chiều sâu thẳm bờ này bờ kia. Dì bảo, dượng thương
dì cũng là thương giọng hò trước nhất. Hồi ấy, thanh niên đi tát mương làm
mệt cứ hò qua đáp lại. Dượng hiền, thương mà chẳng nói chi. Chỉ ấp úng
bảo rằng, nếu tui đi bộ đội, Yến có thương tui không. Dì kể lại mà mặt ưng
ửng đỏ, chẳng hiểu răng lúc ấy dạn lắm, đáp ngay lại rằng chẳng thương,
chỉ nhớ thôi. Rứa là nên duyên. Nên duyên với câu ước hẹn lấp lửng rằng
“Sau này có con, mình sẽ đặt tên là Hiền, Lương, Thương, Nhớ, Mãi, năm
đứa cho vui…”. Dì đẻ được chị Hiền và anh Lương thì dượng đi biệt. Chị
Hiền sốt rồi mất năm lên hai. Anh Lương lúc ấy mới mấy tháng, cũng trèo
lên tuột xuống nom thảm lắm. Mà ngày xưa, chẳng ai sướng sung gì. Trong
làng, thanh niên trai tráng đều đi bộ đội, làng chỉ còn đàn bà con gái, trẻ