“Bố đang ngủ,” chị Cee bảo, tôi cảm thấy cơn giận quen thuộc bùng lên
trong câu nói. Chúng tôi đứng gần nhau quá. Cái sảnh không nhỏ bé gì,
nhưng tôi lại thấy khó thở.
“Chuyến bay thế nào hở em?,” chị Tilly hỏi. “Chị có tra thử rồi, những
bốn ngàn ba trăm dặm. Xa ghê nhỉ?”
Điều khiến tôi thích Mông Cổ hơn cả là chân trời rộng hơn bất kỳ nơi đâu
tôi từng thấy; đất trời vô tận. Tôi khép cửa trước lại. Tôi quên mất phải làm
sao để đóng nó sập hẳn.
“Em phải...”, chị Cee bắt đầu chỉ bảo.
“Em biết.” Tôi kéo cửa về phía mình, đẩy mạnh nắm cửa lên trên và đóng
sầm nó lại.
Chị Cee nhìn túi hành lý của tôi – một cái ba-lô nhỏ màu đen – rồi nhìn
đằng sau tôi. “Em chỉ có bấy nhiêu thôi à?” Tôi hình dung sảnh hành lý với
những bóng đèn huỳnh quang, hàng dãy xe đẩy, băng chuyền hành lý bằng
cao su trầy xước. Tôi đứng chờ ba-lô của mình xuất hiện. Người ta chộp lấy
hành lý của họ và hối hả đi mất. Tôi chờ đến lúc chỉ còn bốn kiện hành lý
cuộn tới: hai thùng cứng, một cuộn gì dài dài gói bằng giấy báo với băng
keo, và một túi đồ có quai mòn tưa. Tôi chờ tiếp đến khi màn hình nháy
sang số chuyến bay và thành phố khác, với một nhóm hành khách mới chụm
quanh. Một đợt hành lý mới bắt đầu xuất hiện. Tôi nghĩ đến việc bốc một cái
rồi đi, nhưng rồi không làm.
“Em lên lầu đây,” tôi nói, bước ngang các chị, nép sát vào tường để khỏi
chạm vào người họ.
“Alice à, bố đang ngủ mà,” chị Cee nắm cánh tay tôi.
“Chị bắc ấm nước lên đã... mình uống trà chút.” Mấy ngón tay chị Tilly
vân vê viền áo.
Tôi rời xa chị Cee. “Em không làm bố dậy đâu.”
Tôi bước lên bốn bậc thang. Cầu thang sơn trắng, giữa có dải thảm đỏ
chốt bằng tán đồng nhuyễn. Lần đầu đến nhà – một bữa ăn trưa chủ nhật bất
tận – Anh Kal từng giễu dải thảm ấy. Anh bảo mình cảm thấy trang trọng